Wednesday, March 10, 2010

Trần Hồ Dũng - TÂM THỨC

TÂM THỨC

Trần Hồ Dũng



Chỉ cần một nụ cười
Tâm ta : hoa hồng nở
Chỉ cần một ánh nhìn
Ḷòng ta : tràn ánh sáng

*
Nụ cười em vừa tắt
Tâm ta : cánh hoa khô
Em quay mặt bước đi
Lòng ta : tràn bóng tối

* *
Bàn chân em thơ ngây
Bước qua đời rất nhẹ
Sao ḷòng ta già cỗi
Hóa sa mạc ưu phiền ?

***
Tâm : khát một nụ cười
Hồn : bóng đêm chờ sáng
Ta bước vào cơn mê
Nghe đời trôi rất lạ

****
Em : là ta ngày trước
Ta : là em ngày sau
Ta và em là một
Nở trong đóa vô thường



tranhodung.saigon .26.2.2010

Tuesday, March 09, 2010

Tổng vịnh Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh

Tổng vịnh Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh

Kim sử duyên đề tặng phiến, Liêu Dương bất quy thúc phụ chi tang, biến khởi mãi ty, Lôi châu tức biện oan dân chi án; tắc sắc cầm hảo hợp, cốt nhục đoàn viên, bích ngọc trường lưu, tử thoa bất đoạn; yên hoa thương khách, hà lai mại tiếu chi kim, thanh giáo ngoại thần, chung trở quy hàng chi giáp. Hà dĩ biểu khuê nhân chi hiếu hạnh, kiến hiệp nữ chi cơ quyền? Nãi tri sự phi khúc tắc bất kỳ, ngộ dũ truân nhi nãi hiển.

Khanh chân đạt giả, tu tri thương hiệu chi liên tài; ngã diệc vân nhiên, mạc oán hồng nhan chi vô phận. Độc thị vị thông môi chuớc, tiên đính tư minh, nhất trụy phiến hoa, tiện thành kết tập. Hoặc giả vị thủy đãng vân lưu chi thái, luận nhi vi chi nghênh diệp tống chi phong. Bất tri hồng hạnh xuất tường, vị phó hương tâm phấn điệp. Sương phong liễm hận, khủng điên họa sự ư trì ngự. Lệ kính lý chi băng sương, độ sầu biên chi tuế nguyệt. Vô hà chi bích, giá khả trọng ư liên thành; dĩ thệ chi ba, mộng do hồi ư cựu phố. Thí bình tình nhi trước luận, nghi lược tích nhi nguyên tâm.

Hựu huống: thập thủ tân thi, quán nhập đoạn trường chi tập; tứ huyền cung oán, phổ thành bạc mệnh chi âm. Giác thê lương kỳ não nhân, phục đính đình nhi cố ảnh. Hoa ưng thâu diễm, liễu dục tăng kiều. Tham bắc bộ chi phong tao tiếu đề diệc vận; thiện nam triều chi phấn đại nùng đạm tương nghi. Cố nghi chư lão chung tình, biến danh tính ư quần biên tụ dốc; toại sử thiên thu ký sự, thái phong lưu ư thặng phấn tàn chi.

Ta hồ! Tiểu trích phong trần, kỷ tao ma nghiệt! Tình thiên hạo diểu, hận hải thương mang! Tùy phong chi nhứ hà y! Trụy khổn chi hoa vô lại! Can khanh thậm sự, thế cổ thiên sầu! Nhiên nhi thính nguyệt dạ chi tỳ bà, thanh sam dị thấp; xướng cách giang chi ngọc thụ, bạch mấn thiêm hoa. Do lai danh sĩ giai nhân, túc thế hữu hoa nghiêm chi kiếp. Hựu quái thanh sơn hoàng thổ, thiên cổ đồng luân lạc chi bi. Bộc bản đa tình, cảm thông đồng điệu. Vị ngộ không ư sắc giới, thiên liên do mộng ư xuân tràng. Kim ốc A Kiều, mạn trước bán không chi tưởng; mỹ nhân phương thảo, bằng chiêu cách đại chi hồn. Ngẫu hững bút dĩ trừu tư, toại trục hồi nhi tưởng vịnh. Ngôn chi trường dã, tạ đương khách song thính vũ chi đàm; linh chi lai hề, hoặc tại Lạc phố lăng ba chi dạ...


Bản dịch của Đoàn Tư Thuật:

Giả sử ngay khi trước, Liêu Dương cách trở, duyên chàng Kim đừng lỡ việc ma chay; quan lại công bằng, án viên ngoại tỏ ngay tình oan uổng. Thì đâu đến nỗi son phấn mấy năm lưu lạc, đem thân cho thiên hạ mua cười; mà chắc biên thuỳ một cõi nghênh ngang, ai xui được anh hùng cởi giáp. Thì sao còn tỏ được người thục nữ mà đủ đường hiếu nghĩa, tay đàn bà mà lại có cơ quyền. Thế mới biết: người khôn thì hay gặp gian truân, chuyện đời khéo lắm trò quanh quẩn.

Con tạo hoá vốn thương yêu tài sắc, nàng đà biết thế hay chưa. Khách má hồng đừng giận nỗi trăng già, ta cũng khuyên lời phải chẳng. Chỉ vì một tội mối manh chưa có, thề thốt đã nhiều, trăng gió mắc vào, phồn hoa dính mãi.

Cũng có người bảo: tại nước chảy mây trôi lỡ bước, nên cành đưa lá đón quen thân. Nào biết đâu bông hạnh nở ngoài tường chưa để con ong qua tới; cho có muốn lưỡi dao liều với mạng, lại e thành cháy vạ lây. Tấm lòng này như tuyết như gương, mối sầu nọ qua ngày qua tháng. Ngọc kia không vết, giá liên thành khôn xiết so bì. Nước đã trôi xuôi, hồn cựu mộng hãy còn vơ vẩn.

Bàn cho thật phải, tình cũng nên thương. Lại xem như bút mực tài hoa, đoạn trường mười khúc; trúc tơ phong nhã, hồ cầm một chương; câu thần vẳng vọng tiêu tao, bóng ngọc tưởng chiều não nuột; hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh, vậy nên khách đa tình say chuyện phong lưu, trăm năm cũ còn ghi tên tuổi hảo; người chép sách tiếc vì tài sắc, nghìn thu sau nhặt lấy phấn hương thừa.

Than ôi, một bước phong trần, mấy phen chìm nổi; trời tình mờ mịt, bể hận mênh mang. Sợi tơ mành theo gió đưa đi, cánh hoa rụng chọn gì đất sạch. Ai dư nước mắt khóc người đời xưa, thế mà giống đa tình luống những sầu chung, hạt lệ Tầm Dương chan chứa; lòng cảm cựu ai xui thương mướn, nghe câu ngọc thụ não nùng.

Cho hay danh sĩ giai nhân, cùng một kiếp hoa nghiêm nặng nợ. Ngán nỗi non xanh đất đỏ, để riêng ai luân lạc đau lòng. Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu. Cái kiếp không hoa lẩm cẩm, con hồn xuân mộng bâng khuâng. Đã toan đúc sẵn nhà vàng chờ người quốc sắc, lại muốn mượn chùm phương thảo hú vía thuyền quyên.

Sẵn bút nghiên chia vịnh từng hồi, đem sự tích tóm làm một tựa. Bây giờ kể còn dài chưa hết, hạt ba tiêu như thánh thót mưa thu. Hỡi ơi, hồn còn có biết hay chăng? Bóng hoàn bội tưởng ra vào Lạc phố.

Thursday, March 04, 2010

Rabindranath Tagore- Tâm Tình Hiến Dâng

Tâm Tình Hiến Dâng



(The gardener)

Tác giả: Rabindranath Tagore

Dịch giả: Đỗ Khánh Hoan

---o0o---



1.


Tôi bộc: Xin Hoàng Hậu đoái thương tên tôi bộc của Người!

Hoàng hậu: Dạ yến tan rồi, tôi bộc của ta về hết. Sao người lại tới lúc nửa đêm hôm khuya khoắt này?

Tôi bộc: Khi những người khác đã ra về, đó mới là lúc tôi đến với Người. Tôi đến để cầu xin, cầu xin làm những gì còn sót lại dành cho tên tôi bộc cuối cùng.

Hoàng hậu: Ngươi còn cầu mong gì khi đêm đã quá khuya?

Tôi bộc: Xin cho tôi được làm kẻ chăm sóc vườn hoa của Người.

Hoàng hậu: Lời nói nghe mới điên rồ làm sao?

Tôi bộc: Tôi sẽ bỏ những việc đang làm, đem giáo gươm đã dùng vứt vào cát bụi. Xin Người đừng gởi tôi tới các Hoàng cung xa xôi, và cũng xin đừng bắt tôi dấn thân vào cuộc chiến chinh nào khác nữa. Chỉ xin cho tôi được làm kẻ chăm sóc vườn hoa.

Hoàng hậu: Nhiệm vụ của ngươi sẽ ra sao?

Tôi bộc: Tôi sẽ hầu hạ Người trong những ngày Người rảnh rỗi; tôi sẽ giữ gìn cho lối đi rậm cỏ xanh tươi, nơi buổi sớm mai Người đi dạo gót khoan thai, những cánh hoa sắp tàn sẽ hân hoan chào đón từng bước chân Người. Tôi sẽ đu Người trên cái đu giữa những cành cây xạp-ta bạc-na, ở đó trăng non chiều tàn qua kẻ lá sẽ cố gắng hôn tà áo Người. Tôi sẽ rót thêm dầu ngào ngạt hương thơm vào ngọn đèn toả sáng gần giường Người ngủ và trang hoàng tấm thảm để Người đặt chân bằng gỗ trầm màu đỏ và kim cương màu vàng với nhiều hình vẽ diệu kỳ.

Hoàng hậu: Thế còn phần thưởng?

Tôi bộc: Chỉ xin được phép nâng bàn tay nhỏ nhắn của Người, bàn tay như những búp sen nõn nà, rồi quấn nhẹ vào cổ tay những chuỗi hoa nhỏ; chỉ xin được nhuốm gót chân Người bằng chất nước hoa a-bo-ca màu đỏ, rồi thổi đi những hạt bụi ngẫu nhiên còn dính lại.

Hoàng hậu: Tôi bộc của ta ơi, điều ngươi cầu xin ta chấp thuận. Ngươi sẽ là kẻ chăm sóc vườn hoa.

2.

"Ủa, thi nhân, chiều xuống dần; tóc anh đang ngả màu xam xám. Trong trầm tư cô đơn, anh có nghe lời gọi vọng từ kiếp sau?"

"Chiều đến rồi", thi nhân đáp, "tôi đang lắng nghe, lắng nghe, vì lẽ dẫu muộn màng, có thể từ thôn làng vẫn có người đứng gọi. Tôi để mắt nhìn liệu những trái tim trẻ dại, lạc loài có gặp nhau chăng, liệu những đôi mắt hăm hở đang mong cầu giai điệu, giai điệu có đến để đánh tan màn im lặng, rồi thay họ mà nói nên lời. Ai sẽ ở đó dệt những bài ca đắm đuối họ đang cất tiếng hát nếu tôi cứ ngồi trên bờ cuộc đời trầm ngâm nghĩ đến sống chết cùng thế giới bên kia?"

"Sao hôm đầu tiên đã lặn. Ánh lửa đám hoả thiêu tàn lụi dần bên bờ sông tịch mịch. Từ khoảng sân thuộc căn nhà hoang vắng, bầy chó sủa suông dưới ánh trăng úa tàn. Nếu có khách tha phương nào đó, lìa bỏ căn nhà êm ấm, tới đây ngắm nhìn đêm tối, cúi đầu lắng nghe bóng tối thì thầm, ai sẽ ở đấy thì thào bên tai người ấy những huyền bí của cuộc đời nếu tôi khép cửa nhà mình lại cố gắng dứt mình khỏi mọi ràng buộc trần gian?"

"Tóc tôi ngả màu hoa râm là chuyện nhỏ nhặt. Tôi vẫn hằng trẻ như những người trẻ nhất hoặc vẫn hằng già như những người già nhất sống trong thôn này. Ở đây, có những người có nụ cười dịu hiền, chất phác, có những người có ánh mắt ranh mãnh, tinh ma, có những người nước mắt trào tuôn trong ánh sáng ban ngày và có những người lệ nhỏ âm thầm trong bóng tối âm u. Họ thảy đều cần đến tôi, bởi thế tôi làm gì có thì giờ ấp ủ cuộc đời bên kia thế giới. Tôi thuộc về cùng thời đại với mọi người. Có sao đâu nếu tóc tôi đã ngả màu?"



3.

Buổi sớm mai tôi quăng lưới xuống biển. Từ vũng sâu đen ngòm tôi kéo lên vô số vật với hình thù và vẻ đẹp lạ kỳ - có vật rạng rỡ như nụ cười, có vật long lanh như giọt lệ và có vật ửng hồng như má cô dâu.

Chiều đến, gánh nặng trên vai, tôi về nhà; người yêu tôi đang ngồi trong vườn thẩn thờ xé nhỏ từng cánh hoa tươi. Tôi ngại ngần giây lát, rồi đặt xuống chân nàng những vật bắt được, đoạn đứng lặng im. Nàng đưa mắt nhìn rồi nói: "Những vật này kỳ lạ thật? Em chẳng hiểu chúng dùng để làm gì?"

Ngượng ngùng, tôi cuối đầu thầm nghĩ: "Mình đã không tốn công lao để có những thứ này, mình đã không bỏ tiền ra mua chúng ngoài chợ; chúng chẳng phải quà tặng thích hợp dành cho nàng".

Thế rồi suốt đêm thâu tôi đêm từng cái, từng cái ném ra ngoài đường. Buổi sáng du khách đi qua; họ nhặt tất cả rồi mang về những miền xa xôi.



4.

Ừ nhỉ, sao họ xây nhà cho tôi bên đường lên phố chợ? Họ neo thuyền chở nặng gần vườn cây tôi trồng. Họ tới lui, lang thang tuỳ ý. Tôi ngồi ngắm họ; thời gian của mình trôi mau. Xua đuổi họ đi tôi không thể. Cứ thế nhày tiếp ngày lặng lẽ trôi qua.

Suốt ngày đêm tôi nghe bước họ vang ngoài ngõ. Hoài công tôi nói lớn: "Tôi không quen biết các người". Trong bọn họ vài người quen thuộc đối với ngón tay tôi, vài người quen thuộc đối với lỗ mũi tôi, máu trong thân thể tôi dường như cũng biết họ, và vài người quen thuộc đối với những giấc mơ của tôi. Xua đuổi họ đi tôi không nỡ. Tôi gọi họ và nói: "Bất kỳ ai muốn hãy lại nhà tôi. Vâng, xin cứ ở lại".

Buổi sáng, tiếng chuông vang lên ngoài đền. Họ tới, tay mang thúng mẹt, chân nhuốm sắc hồng. Ánh sáng bình minh vờn trên nét mặt. Xua đuổi họ đi tôi không dám. Tôi gọi họ và nói: "Xin mời các người tới vườn tôi mà hái hoa. Xin đến đây đi."

Trưa đến tiếng gồng ngân vang ở Ngọ Môn. Tôi chẳng hiểu tại sao họ lại dừng tay ngưng việc, rồi lân la gần hàng dậu nhà tôi. Những bông hoa họ gài trên mái tóc đã héo tàn và phai màu; tiếng sáo họ thổi nghe não ruột. Xua đuổi họ đi tôi không đành. Tôi gọi họ và nói: "Bóng cây vườn nhà tôi mát lắm. Các bạn vào đây."

Đêm về tiếng dế kêu rả rích trong rừng. Ai đó nhỉ đang từ từ tiến tới cổng nhà tôi rồi nhẹ nhàng gõ cửa? Tôi lờ mờ nhìn thấy khuôn mặt, không ai nói một lời; bầu trời tịch mịch bao phủ khắp nơi. Xua đuổi người khách trầm lặng tôi không làm được. Tôi nhìn khuôn mặt qua màn tối, những giờ mộng mơ êm nhẹ dần trôi.



5.

Lòng rộn ràng, tôi thèm khát những vật xa xôi. Tâm hồn bay xa những mong sờ mó vòng riềm của khoảng cách mịt mờ.

Ôi, Bên Kia Bao La, ôi, tiếng sáo thanh tao vọng từ Bên Kia! Tôi quên, tôi hằng quên rằng mình không cánh để bay, rằng minh vẫn bị ràng buộc vào nơi này mãi mãi.

Lòng hăng hái, tâm thần tỉnh táo, tôi là người khách lạ trong vùng đất không quen. Hơi thở từ Bên Kia đến với tôi thì thầm một hy vọng khó thành. Tiếng nói từ bên kia đối với tim tôi quen thuộc như tiếng nói của chính lòng mình.

Ôi, Miền Xa Khó Tìm, ôi, tiếng sáo lanh lảnh vọngt ừ Miền Xa Khó Tìm! Tôi quên, tôi hằng quên rằng mình không hề thuộc lối, rằng minhg chẳng có ngựa mọc cánh để ra đi.

Thẩn thờ, tôi là người khách phiêu du trong chính hồn tôi. Qua màn sương tắm nắng của những giờ khắc uể oải, hình ảnh mênh mông của Bên Kia Bao La hiển hiện mới rõ rệt làm sao trên nền trời xanh xanh!

Ôi, Tận Cùng Xa Nhất, ôi, tiếng sáo tâm tình vọng từ Tận Cùng Xa Nhất! Tôi quên, tôi hằng quên rằng mọi cửa vào đều đã khép kín trong căn nhà tôi sống cô đơn!



6.

Con chim ngoan nằm trong lồng, con chim hoang ở ngoài rừng. Chúng gặp nhau khi thời cơ tới, như định mệnh đã an bài. Chim hoang kêu kên: “Ôi, người bạn tình, hãy cùng nhau ta bay về rừng xanh.” Chim lồng thì thầm: “Bạn lòng ơi, hãy vào đây trong lồng chung sống bên nhau”.

Chim rừng nói: “Trong song sắt lấy chỗ đâu để mình vươn cánh?”. “Chao ôi!”, chim lồng thốt lời, “tôi chẳng biết đậu nơi nào trong bầu trời”. Chim rừng kêu lớn: “Bạn lòng ơi, hãy ca bài ca rừng xanh”. Chim lồng đáp lại: “Hãy ngồi bên đây, tôi sẽ dạy bạn lòng ngôn ngữ của người đại giác”. Chim rừng kêu: “Không, ồ không! Đã là bài ca thì có bao giờ dạy được". Chim lồng nói: "Buồn cho thân tôi chẳng hề biết lời ca của rừng xanh".

Tình đôi chim nhiệt nồng cùng thèm muốn, thế nhưng cả hai chẳng bao giờ có thể liền cánh cùng bay.

Đôi chim nhìn nhau qua song sắt lồng son. Ước vọng của đôi chim muốn thấu hiểu lòng nhau thực là hư huyễn. Đôi chim vỗ cánh trong thèm khát, rồi cất tiếng hót: "Xích lại gần nhau, gần thêm chút nữa, bạn lòng ơi!" Chim rừng kêu lên: "Làm sao được, tôi e cửa lồng đóng kín". Chim lồng thở than: "Than ôi, cánh này bất lực còn đâu là đời!".



7.

Ồ, Mẹ ơi, Hoàng tử trẻ đẹp sắp qua cửa nhà ta - làm sao con có thể chăm chú vào việc làm sáng nay? Mẹ dạy con vấn tóc đi; mẹ bảo con nên mặc áo màu nào đi. Mà sao mẹ lại nhìn con ngỡ ngàng thế hở mẹ?

Con biết chắc chàng sẽ chẳng thèm đưa mắt nhìn lên cửa sổ nhà ta; con biết chàng sẽ vượt khỏi tầm mắt con trong khoảnh khắc; chỉ còn điệu nhạc hư ảo, chập chờn của tiếng sáo từ xa nức nở sẽ đến với con.

Thế nhưng, Hoàng tử trẻ đẹp sẽ qua cửa nhà ta; con sẽ mặc chiếc áo đẹp nhất vào giây phút ấy.

Ồ, Mẹ ơi! Hoàng tử trẻ đẹp quả có qua cửa nhà ta; ánh nắng ban mai lóng lánh trên xe chàng đi. Con vén màn che mặt, giựt đứt chuỗi ngọc hổ phách đeo trên cổ, rồi quăng ra lối chàng qua. Mà sao mẹ lại nhìn con ngỡ ngàng vậy hở mẹ?

Con biết chắc chàng sẽ chẳng nhặt chuỗi hạt con ném xuống; con biết chuỗi hạt sẽ bị bánh xe chàng nghiến nát để lại vết đỏ trên đường đất bụi; rồi chẳng ai hay vật con hiến dâng là gì và cũng chẳng ai biết con dâng hiến cho ai.

Thế nhưng, Hoàng tử trẻ đẹp thế nào cũng qua cửa nhà ta; con sẽ giựt phăng viên ngọc đeo trên ngực rồi ném xuống trước lối chàng đi.



8.

Khi ngọn đèn bên giường lụn tắt, tôi thức dậy cùng tiếng chim ban mai. Tôi ngồi bên cửa sổ mở toang, vòng hoa tươi mát nằm trên mớ tóc lỏng buông. Người du khách trẻ đẹp đi dọc bên đường trong sương hồng buổi sớm. Cổ chàng đeo chuỗi ngọc; ánh bình minh vương trên mái tóc. Dừng trước cửa nhà tôi, chàng hối hả hỏi: "Nàng ở đâu nhỉ?" Lòng nặng ngường ngùng, tôi không thể nói: "Nàng là Em, du khách trẻ đẹp, nàng là Em".

Trời vào hoàng hôn, nhưng đèn chưa thắp. Tôi đang thẫn thờ vấn lại làn tóc. Chàng du khách trẻ đẹp đi xe tới trong ánh chiều hôm vàng vọt. Ngựa chàng mỏi mệt, xùi bọt trắng mép; và cát bụi phủ đậm áo chàng. Xuống ngựa trước cửa nhà tôi, chàng cất tiếng hoit, giọng mệt mỏi: "Nàng ở đâu nhỉ?" Lòng nặng thẹn thùng, tôi chẳng thể nói: "Nàng là Em, du khách thấm mệt, nàng là Em".

Đó là một đêm xuân. Đèn phòng tôi toả sáng. Làn gió phương Nam nhẹ nhàng thổi. Con vẹt lắm mồm đã ngủ yên trong lồng. Tấm áo tôi mặc có màu sắc như ức con công, áo choàng ngoài xanh màu xanh cỏ mướt. Tôi ngồi bên cửa sổ, ngắm phường phố vắng tanh. Qua bóng đêm thâu, tôi khe khẽ thủ thỉ: "Nàng là Em, du khách tuyệt vọng, nàng là Em".



9.

Khi tôi đi một mình ban đêm đến chỗ người yêu hò hẹn, chim không hót, gió không thổi, nhà cửa hai bên đường đứng lặng im. Chỉ có y trang tôi vẫn vang âm theo mỗi bước chân đi và tôi phát ngượng.

Khi tôi ngồi ở bao lơn ngóng đợi từng bước chân chàng, lá trên cây không rì rào, nước dưới sông nằm im, nằm im như thanh kiếm trên gối người lính gác ngủ khì. Chỉ có tim tôi đập rộn ràng - tôi chẳng biết làm sao ngăn cản nổi.

Khi người yêu tôi tới ngồi bên cạnh, khi toàn thân tôi rẩy run, mí mắt rủ buông, màn tối giăng đen, gió thổi đèn tắt và mây kéo che mờ sao đêm. Chỉ có viên ngọc tôi đeo trên ngực óng ánh toả sáng - tôi chẳng biết làm sao giấu che đi được.

10.

Cứ đều tay làm việc, tân giai nhân. Hãy lắng nghe, khách đã đến. Giai nhân nghe chăng, chàng đang nhẹ nhàng lắc xích dăng ngang then cổng? Hãy canh chừng, khi tới gặp chàng, đừng để vòng đeo chân kêu lớn tiếng, chớ để bước đi bước quá vội vàng.

Cứ đều tay làm việc, tân giai nhân, khách sẽ tới lúc chiều hôm. Không, không phải lượn gió ma quái nào đâu, giai nhân ạ, đừng hoảng sợ.

Đó là mặt trăng tròn tĩnh đêm Xuân bóng ngả xanh mờ ngoài sân cỏ; bầu trời trên cao sáng trong. Nếu thấy cần thì vén màn che mặt; nếu thấy sợ, cầm đèn ra tận cổng. Không, không phải lượng gió ma quái nào đâu, giai nhân ạ, đừng hoảng hốt. Chớ nói lời nào với chàng nếu còn bẽn lẽn; hãy nép mình bên cổng khi giáp cận mặt chàng. Nếu chàng hỏi han, và nếu tự mình cũng muốn, tân giai nhân nên cúi mặt lặng im nhìn xuống.

Đừng để vòng xuyến leng keng va nhau khi, tay cầm đèn, dẫn chàng vào nhà. Chẳng nên nói lời nào với chàng nếu còn e thẹn.

Vẫn chưa làm xong công việc ư ,giai nhân? Này kia, khách đã tới. Vẫn chưa thắp đèn trong chuồng bò? Chưa sẵn sàng mâm quả để lễ đêm nay? Vẫm chưa điểm nốt son hạnh phúc chỗ đường ngôi rẽ ngang và chưa tắm gội để sửa soạn đêm nay? Ồ, tân giai nhân nghe chăng, khách đã lại? Nhưng cứ đều tay, đều tay, đều tay.

11.

Cứ thế mà đi, đừng dềnh dàng chải chuốt. Nếu vòn tóc vấn còn lỏng đường ngôi rẽ chưa xuôi, giải lụa thắt lưng không chặt, cũng đừng bận tâm, em ạ. Cứ thế mà đi, đừng dềnh dàng chải chuốt. Nào, hãy bước lẹ lên cỏ non xanh mịn. Nếu đất đỏ vì sương mai văng lên gớt, vòng bạc nơi chân còn lỏng lẻo, ngọc báu rơi khỏi chuỗi đeo tay, cũng đừng bận lòng, em ạ. Nào hãy bước lẹ lên cỏ non xanh mịn.

Em thấy chăng mây đang phủ kín bầu trời? Từ bờ sông xa hạc từng đàn bay tới, gió từng cơn đổ xuống đồng hoang. Trong làng trâu bò ưu tư nhanh bước về chuồng. Em thấy chăng mây đang phủ kín bầu trời.

Hoài công em châm đèn trang điểm - đèn chập chờn và gió thổi tắt ngay. Ai sẽ biết mi mắt em đã không bị muội đèn chạm tới? Vì mắt em còn đen hơn mây trời mọng nước. Hoài công em chong đèn trang điểm - đèn vẫn tắt ngay.

Cứ thế mà đi, đừng dềnh dàng chải chuốt. Nếu vòng hoa em kết chưa xong, nào ai để ý; nếu lắc tay em gài chưa chặt, chẳng nên cầu kỳ.

Bầu trời hôm nay vần vũ - muộn rồi đấy em ơi! Cứ thế mà đi, đừng dềnh dàng chải chuốt.



12.

Nếu em mang bình đi xách nước, hãy đến, xin hãy đến hồ tôi. Nước sẽ đổ xô quanh chân em thì thầm, tâm sự. Bóng mưa in trên cát mịn; mây giăng thấp ngang viền cây xanh tựa làn tóc màu mun phủ vầng trán thơ ngây. Tôi quá quen nhịp bước em đi, mỗi nhịp đập vang mạnh vào tim. Hãy đến, xin hãy đến hồ tôi nếu đi kiếm nước. Nếu em ngồi thẩn thờ, uể oải để bình trôi trên sóng, hãy đến, xin hãy đến hồ tôi.

Đường dốc cỏ mịn xanh, hoa dại nhiều vô số. Ý nghĩ trong em sẽ vượt khỏi tròng mắt nhung đen lang thang như chim non rời tổ. Màn che mặt sẽ rơi xuống chân em. Cứ lại, xin cứ lại hồ tôi nếu em muốn ngồi thẫn thờ, uể oải. Nếu thôi đùa nghịch, nếu muốn dầm mình trong nước, hãy đến, xin hãy đến hồ tôi. Trải áo choàng màu xanh lên bờ cỏ; màu nước xanh sẽ giấu kín em đi. Sóng sẽ nghểnh lên hôn nhẹ cổ trắng ngà rồi thì thầm bên tai em. Hãy đến, xin hãy đến hồ tôi nếu em muốn dầm mình trong nước.

Nếu quẩn trí và muốn quyên sinh cứ đến, xin cứ đến hồ tôi. Ở đây mát lạnh và sâu thẳm. Ở đấy âm u như giấc ngủ không mơ. Ở đất, trong sâu thẳm, ngày đêm là một và lời ca là im lặng triền miên. Cứ tới, xin cứ tới hồ tôi nếu em muốn trầm mình giã từ trần thế.



13.

Tôi không hỏi xin gì mà chỉ đứng ở ven rừng sau rặng cây xanh. Ánh mắt bình minh hãy còn mệt mỏi và không gian nặng trĩu sương mai. Trong làn sương mong manh hương cỏ ướt lười biếng còn trườn mình trên mặt đất. Dưới tán cây đa em đang vắt sữa bò; tay mềm mại tươi mát như bơ. Tôi đứng lặng thinh.

Tôi không nói một lời. Chỉ có con chim nhỏ nấp kín trong lùm cây cất tiếng hót. Cây xoài đang rắc hoa trên đường làng; đàn ong từng con từng con bay bay lượn lượn. Phía bên kia bờ ao cổng đền Thi Và đã mở, người ngoan đạo đang cất tiếng cầu kinh. Em vắt sữa bò để bình trên bắp vế. Tôi đứng tay cầm chiếc lon rỗng không.

Tôi chẳng lại gần em. Bầu trời thức giấc theo tiếng kiểng trong đền. Bụi đường dâng cao sau bước chân gầy gia súc; những người đàn bà từ sông trở lại mang bình nước sóng sánh trên hông. Lắc tay em đeo ngân vang nhè nhẹ; sữa bò sủi bọt tràn khỏi miệng bình.

Buổi mai trôi qua mà tôi chẳng gần lại em.



14.

Lúc buổi trưa trôi qua và cành tre rì rào trong gió tôi đang đi bên đường ,tôi chẳng hiểu tại sao. Nhiều bóng nằm ngang tay trải rộng ôm chặt bước đi của ánh nắng vội vàng. Chim cô-en không buồn cất tiếng hót. Tôi đang đi bên đường, tôi chẳng hiểu tại sao.

Túp lều tranh bên dòng nước có cây cao bao trùm che mát. Có cô con gái nào đó đang bận bịu việc làm, đồ trang sức trên tay nhẹ vang trong xó tối. Tôi dừng chân trước cửa túp lều này, tôi chẳng hiểu tại sao.

Con đường nhỏ quanh co lượn khúc qua bao nhiêu ruộng cải sen tươi non, qua biết bao vườn xoài mọng chín, băng ngang ngôi đền làng rồi khu chợ bên bến sông. Tôi dừng chân bên cạnh túp lều này, tôi chẳng hiểu tại sao.

Bao năm về trước, vào một ngày mùa Xuân khi trời lộng gió tiếng suối thì thầm trở nên buồn bã và hoa xoài từng cánh lã tã rơi xuống mặt đường. Làn nước lăn tăn nhảy múa, liếm vào mạn thuyền đồng đậu ở bến sông. Tôi trạnh nghĩ đến ngày Xuân lộng gió ấy, tôi chẳng hiểu tại sao.

Bóng chiều mỗi lúc thêm dày đặc; mục súc về chuồng. Ánh nắng ngả màu xám trên đồng cỏ hoang liêu trong lúc dân làng đứng đợi đò bên bờ sông. Tôi từ từ quay gót, tôi chẳng hiểu tại sao.



15.

Tôi chạy như con xạ hươu trong bóng tối rừng cây, say vui vì hương thơm ngào ngạt của chính mình. Đêm nay là đêm giữa mùa Xuân; gió này là gió từ phương Nam thổi lại.

Lạc lối, tôi đi lang thang; tôi tìm cái mình không thể có và tôi có cái mình không thể tìm.

Từ tim tôi hình ảnh của ước muốn riêng tư bay ra rồi nhảy múa. Ảo ảnh chập chờn nhè nhẹ lướt qua. Tôi cố ghì ảo ảnh trong tay; ảo ảnh tuột thoát khiến tôi lạc loài. Tôi tìm cái mình không thể có và tôi có cái mình không thể tìm.



16.

Tay xiết trong tay, mắt vờn theo mắt, từ đó lịch sử tâm tình đôi ta bắt đầu. Đêm ấy là đêm trăng đầu Xuân; hoa ben-na thơm ngạt ngào lan trong không khí. Chiếc sáo anh thổi nằm trơ trên mặt đất; vòng hoa em kết vẫn chưa xong. Tình yêu đôi ta đơn sơ như một bài ca.

Màn em che mặt màu vàng cam làm mắt em ngất ngây; vòng hoa nhài vì anh em kết thôi thúc tim anh rung lên từng nhịp như lời ngợi ca. Đây là trò chơi cho đi đòi lại, bộc lộ rồi lại phủ che; vài nụ cười tươi duyên, vài thẹn thùng nho nhỏ, vài giận hờn nhè nhẹ, vài giành giật bâng quơ. Tình yêu đôi ta đơn sơ như một bài ca.

Chúng mình không miên man nói mãi để rồi chìm vào im lặng triền miên; chúng mình không quờ tay với khoảng không để tìm điều ngoài hy vọng. Thật đủ rồi cái ta cho và cái ta được. Chúng mình đã không bóp ngẹt nguồn vui, thật nghẹt để vắt ra men rượu đau thương. Tình yêu đôi ta đơn sơ như một bài ca.



17.

Con chim màu vàng cất tiếng trong lùm cây bên ấy, giọng hót làm tim tôi ca múa rộn ràng. Hai đứa chúng tôi cùng sống trong một làng; đấy là nguồn vui duy nhất của hai tâm hồn. Cặp cừu non ngàng âu yếm tới ăn cỏ dưới bóng mát vườn cây nhà tôi. Nếu chúng lạc vào ruộng bắp tôi trồng, tôi sẽ trìu mến bồng chúng trên tay. Tên làng chúng tôi ở là Khàn A Na và An A Nà là tên người ta gọi dòng sông. Tên tôi trong làng ai cũng biết còn tên nàng người ta gọi Ràn A Na.

Chỉ một cánh đồng nằm giữa chúng tôi. Bầy ong xây tổ trong rừng bên này nhưng đi tìm mật ong trong rừng bên ấy. Những bông hoa trôi dạt từ bến bên ấy bồng bềnh theo dòng suối sang bến tắm bên tôi.

Những thúng đầy hoa cum khô từ ruộng bên ấy được mang sang bán ở bên chợ này. Tên làng chúng tôi ở là Khàn A Na và An A Nà là tên người ta gọi dòng sông. Tên tôi trong làng ai cũng biết còn tên nàng người ta gọi Ràn A Na.

Con đường nhỏ quanh co tới căn nhà bên ấy mùa Xuân thơm phức mùi hoa xoài. KHi cây gai bên áy chín vàng chờ gặt, cây dầu nở hoa đầy vườn bên này. Những vì sao mỉm cười trên mái tranh bên ấy cũng gởi qua bên này ánh mắt lấp lánh tươi vui. Mưa tràn ao nước bên ấy làm rừng ca-đam bên này mừng lây. Tên làng chúng tôi ở là Khàn A Na và An A Nà là tên người ta gọi dòng sông. Tên tôi trong làng ai cũng biết còn tên nàng người ta gọi Ràn A Na.



18.

Lúc hai chị em đi gánh nước hễ tới nơi này họ đều mỉm cười. Hẳn họ thừa biết có ai đó đứng sau lùm cây bất kỳ khi nào họ gánh nước nơi đây. Hai chị em thì thầm với nhau khi qua bên này. Hẳn họ thừa đoán đều thầm kín của ai đó đứng sau lùm cây bất kỳ khi nào họ gánh nước nơi đây.

Đôi nồi bỗng dưng chòng chành, nước tràn ra ngoài khi họ tới nơi này. Hẳn họ phải nhận ra tim ai đó đứng sau lùm cây đang đánh nhịp rộn ràng bất kỳ khi nào họ gánh nước nơi đây.

Khi tới nơi này hai chị em đưa mắt nhìn nhau rồi mỉm cười. Có tiếng khúc khích trong bước đi vội vã làm rối trí ai đó đứng sau lùm cây bất kỳ khi nào họ gánh nước nơi đây.



19.

Em nhẹ bước trên lối mòn bên sông ngang hông mang bình nước tràn đầy. Sao lại vội quay mặt liếc nhìn tôi qua màn che phất phơ trong gió? Ánh mắt sáng tươi ấy từ thâm u trùm lên thân tôi như đợt gió nhẹ rùng mình lướt qua mặt nước lăn tăn tới bờ xa râm mát. Ánh nhìn ấy đến với tôi như cánh chim chiều hối hả bay qua phòng tối không đèn từ cửa sổ này đến cửa sổ kia, rồi biến vào màn đêm âm u. Em nấp kín như vì sao đằng sau dãy đồi; tôi là khách bộ hành lê gót trên đường dài.

Nhưng sao em dừng giây lát liếc mắt nhìn tôi qua màn che mặt khi đang nhẹ bước trên lối mòn bên sông ngang hông mang bình nước tràn đầy?


20.

Ngày qua ngày chàng tới rồi lại đi xa. Người bạn tôi ơi, hãy mang cho chàng bông hoa đang cài trên mái tóc tôi đây.

Nếu chàng gạn hỏi ai là người cho hoa ấy, xin nhớ đừng nói tên tôi - vì chàng chỉ tới một lần rồi lại đi xa.

Chàng ngồi trên đất bụi dưới tán cây. Người bạn tôi ơi, hãy lấy hoa cùng lá trải ra đó thành chỗ ngồi.

Đôi mắt chàng vương buồn đem u buồn đến tận tim tôi.

Chàng không nói điều đang nghĩ - vì chàng chỉ tới rồi lại đi xa.


21.

Ừ mà sao chàng lại chọn lối đến cổng nhà tôi, người trai phiêu lãng, khi vừa bình minh?

Mỗi lần ra vào là mỗi lần tôi nhìn thấy chàng, mắt chàng bắt gặp mắt tôi. Tôi chẳng biết có nên chuyện trò hay cứ lặng im. Ừ mà sao chàng lại chọn lối đến cổng nhà tôi?

Đêm tháng bảy trời đầy mây đen; vào Thu không gian xanh dịu; ngàu Xuân rạo rực vì làn gió phương Nam. Mỗi lần đến chàng lại dệt lời ca bằng cung điện mới tươi. Tôi buông tay rời việc, mắt tràn ngập sương lam. Ừ mà sao đến cổng nhà tôi chàng lại dừng chân chọn lối?



22.

Lúc nàng bước nhanh qua trước mặt, tà áo nhẹ vương thân tôi. Từ hoang đảo vô danh của trái tim đơn côi làn hơi ấm áp mùa Xuân chợt thổi về. Tà áo lất phất khẽ chạm người tôi rồi mất hút nhanh như cánh hoa tả tơi bay trong gió nhẹ, rơi vào tim tôi như tiếng vóc thân nàng thở dài hay tiếng trái tim nàng thì thầm nhè nhẹ.



23.

Sao em ngồi đó tay rung vòng xuyến vẩn vơ? Múc nước đầy bình đi thôi, giờ về đã đến.

Sao em đưa tay khuyấy nước mà mắt cứ vẩn vơ lúc lúc lại hướng về con đường trước mặt, kiếm tìm ai đó em ơi? Múc nước đầy bình đi thôi, giờ về đã đến.

Buổi sáng từ từ trôi qua - dòng sông đen ngòm vẫn tiếp tục chảy. Sóng thành đợt nô đùa và thì thầm với nhau trò chơi vớ vẩn.

Mây lang thang tụ tập ở riềm trời là là trên mặt đất. Mây nấn ná ngó nhìn em và mỉm cười vẩn vơ. Múc nước đầy bình đi thôi, giờ về đã đến.



24.

Bạn oi! đừng chôn chặt trong tim những nỗi niềm thầm kín. Hãy kể tôi nghe, chỉ riêng tôi, kể trong bí mật. Bạn mỉm cười duyên dáng, thì thầm dịu dàng; tôi sẽ nghe lời bạn bằng tim chứ không phải bằng tai.

Đêm chìm sâu, căn nhà im lặng, chim trong tổ đang dầm mình ngon giấc ngủ say. Hãy kể cho tôi hay những nỗi niềm thầm kín. Hãy kể cho tôi nghe qua nước mắt ngập ngừng, qua nụ cười gượng gạo, qua đau thương thấm lịm, qua tủi hổ lặng trầm những nỗi niềm thầm kín trong tim!



25.

"Này anh bạn trẻ, hãy đến với chúng tôi, và kể cho nghe thành thực sao mắt anh có ánh dại cuồng?"

"Tôi chẳng rõ đã uống anh túc dại hoang nào mà trong ánh mắt lại hiện vẻ dại cuồng"

"Xấu hổ làm sao"

"Nhưng, nên nhớ đời có kẻ khôn ngoan, có người dại khờ, có người cẩn thận, có người bừa bãi lung tung. Có những đôi mắt cười tươi, có những đôi mắt đẫm lệ - còn trong đáy mắt tôi có ánh dại cuồng"

"Này anh bạn trẻ, sao lại đứng lặng thinh thế dưới bóng mát tàn cây?"

"Chân rã rời vì tim nặng trĩu u buồn nên tôi đứng lặng thinh dưới bóng mát tàn cây"

"Ồ, xấu hổ làm sao!"

"Nhưng, trên đường dài có người tiến xa, có người lẽo đẽo, có người tự do, có người tù túng - còn chân tôi thì đã rã rời vì tim trĩu nặng u buồn riêng tư."



26.

"Bất kỳ thứ gì từ bàn tay em tha thiết, tôi đều giữ hết, không đòi hỏi gì hơn"

"Vâng, vâng, em hiểu anh, người hành khất khiêm nhường, anh muốn xin tất cả những gì người đời hằng có"

"Nếu dành cho tôi bông hoa lạc loài, tôi sẽ cài hoa đó lên tim"

"Thế nhỡ hoa có gai thì sao?"

"Tôi sẵn sàng chịu đựng"

"Vâng, vâng, em hiểu anh, người hành khất khiêm nhường, anh muốn xin tất cả những người đời hằng có". "Nhưng một khi nếu em trìu mến đưa mắt nhìn khuôn mặt, ánh nhìn ấy sẽ cho tôi niềm vui vượt ra ngoài cõi chết."

"Thế ngộ chỉ có những ánh nhìn hung dữ thì sao?"

"Tôi sẽ để chúng xuyên thủng tim mình"

"Vâng, vâng, em hiểu anh, người hành khất khiêm nhường, anh muốn xin tất cả những gì người hằng có"



27.

"Hãy đặt lòng tin vào tình yêu cho dẫu tình yêu mang lại khổ đau. Chẳng nên khép kín lòng mình như thế"

"Không đâu anh, lời anh tối nghĩa em không hiểu"

"Em ơi! Trái tim ta có cũng chỉ để đem cho người đời với giọt lệ, với bài ca"

"Không đâu anh, lời anh tối nghĩa em không hiểu"

"Nguồn vui mong manh như giọt sương mai vừa mới nở cười đã vội vàng chết yểu. Nhưng u buồn thường dai dẳng khó tan. Hãy để tình yêu khổ đau trong mắt em bừng tỉnh"

"Không đâu anh, lời anh tối nghĩa em không hiểu"

"Hoa sen nở khi thấy ánh mặt trời rồi mất hết nhuỵ tinh và chẳng bao giờ giữ nguyên hình nụ búp trong sương lạnh vĩnh cửu mùa Đông"

"Không đâu anh, lời anh tối nghĩa em không hiểu"



28.

Đôi mắt em hỏi han trông băn khoăn, u buồn; mắt ấy muốn tìm hiểu ý nghĩa lời tôi như mặt trăng muốn đo lường đáy biển.

Tôi đã lột trần đời mình từ đầu đến cuối để em rõ, để em hay, không đậy che, không dấu diếm. Đó là lý do tại sao em chưa hiểu ý nghĩa những lời tôi nói.

Nếu đó chỉ là viên ngọc báu, tôi sẽ đập ra trăm mảnh, xâu thành chuỗi rồi choàng lên cổ em xinh.

Nếu đó chỉ là bông hoa tròn trĩnh, nhỏ nhắn, thơm tho, tôi sẽ bứt khỏi cành rồi gài lên mái tóc em đẹp.

Nhưng đó lại là trái tim, em ơi, thì biết đâu là bờ là đáy?

Dẫu không biết hết biên giới của kinh đô tình yêu, em vẫn là Hoàng hậu trị vì trong đó.

Nếu đó chỉ là giây phút vui tươi, giây phút ấy sẽ nở thành nụ cười cởi mở và em có thể bắt gặp khi chợt thấy chợt nhìn.

Nếu đó chỉ là nỗi thương đau, ắt sẽ biến thành nước mắt trong vắt phản ánh buồn sầu thầm kín không lời than van.

Nhưng đó lại là tình yêu, em ạ. Nguồn vui, nỗi sầu của tình yêu thường mênh mông; điều tình yêu thiếu, tình yêu thừa cũng vô cùng vô tận.

Tình yêu vẫn gần gũi với em như chính cuộc đời em đang vui sống, song có bao giờ hiểu rõ hoàn toàn.



29.

Anh yêu mến! nói cho em hay, kể cho em biết - bằng lời - những điều anh đang hát.

Đêm thâm u, sao lẩn trong mây, gió đang nỉ non qua kẻ lá.

Em sẽ buông lỏng vành tóc. Tấm áo choàng màu xanh sẽ trùm lấy thân em như màn đêm mênh mông.

Em sẽ ghì chặt đầu anh vào lòng rồi cứ thế thủ thỉ cùng tim anh trong tịch mịch dịu trầm.

Em sẽ nhắm mắt, lắng nghe, và không nhìn khuôn mặt.

Khi anh dứt lời, chúng mình sẽ ngồi bất động lặng im. Chỉ có lùm cây rì rào trong đêm. Màn tối sẽ nhạt màu, rồi ngày sẽ rạng. Chúng mình sẽ nhìn vào mắt nhau, rồi mỗi người đi một phương. Anh yêu mến! nói cho em hay, kể cho em rõ - bằng lời - điều anh đang hát.



30.

Em là mây chiều lững lờ trôi trên bầu trời mộng ước của tôi. Đem tình yêu thèm khát, tôi hằng vẽ, hằng tạo ra em. Em là của riêng, của riêng tôi, đang ngự trị đỉnh mộng đẹp vô bờ tôi ấp ủ!

Chân em hồng đỏ khi ánh sáng của ước muốn từ tim tôi lan tới; em thu thập bài ca hoàng hôn tôi sáng tác!

Môi em đăng đắng thơm ngon như hương rượu đậm nồng đau khổ. Em là của riêng, của riêng tôi, đang ngự trị trong giấc mộng cô đơn tôi hằng ấp ủ!

Bằng bóng tối cuồng si tôi đã làm mắt em âm u, lẩn quất trong chiều sâu ánh mắt tôi nhìn!

Em thương mến, tôi nắm, gói chặt em trong lưới nhạc tôi giăng. Em là của riêng, của riêng tôi, đang ngự trị trên mộng hiền triền miên tôi hằng ấp ủ!



31.

Tim tôi, cánh chim vùng hoang dại, đã thấy trong mắt em cả một phương trời. Mắt ấy là nôi ngủ của bình minh; mắt ấy là vương quốc của các vì sao đêm.

Lời tôi ca biến tan trong chiều sâu mắt em. Xin cho tôi bay vút bay vút lên cao trong phương trời ấy, trong mênh mông cô quạnh của phương trời ấy.

Xin cho tôi xé tan những màn mây rủ che và tung rộng đôi cánh trong ánh triều dương thuộc phương trời trong mắt em.

32.

Anh yêu, hãy nói em hay nếu điều này hoàn toàn là thực; hãy nói em rõ nếu điều này là sự thật.

Khi đôi mắt này loé lên làn chớp, mây đen trong lồng ngực anh nổi bão táp trả lời. Có phải môi em thơm dịu như nụ hoa tình đầu hé nở, lần đầu tiên biết mình yêu đương.

Có phải những kỷ niệm xa xưa, những tháng ngày Xuân tàn lụi vẫn còn vương rớt trên tay chân em?

Có phải trái đất, giống một hồ cầm, vẫn thường rung ngân lời ca khi chân em chạm tới?

Có phải sương lạnh từ cặp mắt màn đêm đã rớt xuốn khi chợt thấy em dạo bước? Và có phải ánh sáng ban mai đã hân hoan vui sướng lúc bình minh trùm kín thân em?

Có phải, có phải tình anh đã một mình phiêu du qua bao thời đại, qua bao thế giới chỉ để tìm em?

Có phải cuối cùng lúc thấy em rồi niềm khao khát bao năm trong anh đã kiếm tìm yên bình tuyệt đối trong mắt, trên môi, trên suối tóc chảy dài và trong giọng nói em dịu dàng?

Và có phải lẽ nhiệm mầu huyền bí của Vô Tận Vô Cùng đã khắc nơi này vầng trán nhỏ bé không anh? Nói em nghe, anh yêu, nếu tất cả đều là sự thật?



33.

Anh ơi, em yêu anh. Xin anh tha thứ cho tình em. Như chim lạc lối, em sa vào lưới. Khi tim rung động, màn che tuột rơi, lòng em phơi trần.

Anh yêu, xin đem xót thương bao phủ trái tim trần trụi ấy và tha thứ cho tình em.

Nếu không thể yêu thương, xin tha thứ nỗi khổ đau em đang chịu đựng. Đừng đứng từ xa nhìn em bực bội.

Em sẽ lẩn vào xó góc, ngồi trong bóng tối nâng hai tay che kín nỗi trơ trẽn bẽ bàng.

Đừng nhìn em nữa, anh yêu, hãy tha thứ khổ đau em đang chịu đựng, Nếu yêu em, xin tha thứ nguồn vui em đang sống.

Khi sóng nguồn hạnh phúc cuốn lòng em trôi xa, đừng cười em buông thả đầy hiểm nguy.

Khi ngự trên ngai vàng, em sẽ thống trị anh bằng tình yêu đầy quyền uy áp chế. Lúc đã như một nữ thần, em sẽ ban cho anh thật nhiều ân huệ, những ân huệ riêng tư.

Anh yêu, hãy chịu đựng niềm kiêu hãnh và tha thứ nguồn vui em đang sống.



34.

Đừng đi đâu xa, em mến, nếu chưa xin phép. Suốt đêm anh đã canh chừng; giờ đây mi mắt nặng trĩu vì buồn ngủ.

Anh sợ mất em khi đã ngủ say. Đừng đi đâu xa, em nhé, nếu chưa xin phép.

Anh đứng dậy đưa tay tìm em rồi tự hỏi: "Hay là mình mơ?"

Liệu anh còn có thể làm gì khác hơn là đem lòng mình buộc lấy chân em rồi ghì chặt vào lòng ngực!

Đừng đi đâu xa, em yêu, nếu chưa xin phép.



35.

Em giỡn cợt vì sợ tôi hiểu quá dễ dàng; em cất tiếng cười để giấu che giọt lệ âm thầm. Tôi hiểu, tôi hiểu nghệ thuật em dùng. Chẳng bao giờ em nói lời muốn nói.

Em né tránh bằng trăm phương ngàn kế, vì sợ tôi không mến trọng thân mình. Em đứng tách riêng, vì sợ tôi lầm với nhiều người khác. Tôi hiểu, tôi hiểu nghệ thuật em dùng. Chẳng bao giờ em đi lối muốn đi.

Em đòi hỏi nhiều hơn người khác. Đó là lý do em chẳng cần tỏ bày. Dáng đùa cợt, vẻ thờ ơ, em khước từ quà tôi trao tặng. Tôi hiểu, tôi hiểu nghệ thuật dùng. Chẳng bao giờ em nhận món quà em muốn nhận.


36

Chàng thì thầm: “Em yêu, ngước mắt nhìn anh”. Tôi nghiêm khắc nhìn chàng và nói: “Anh hãy đi đi!” Nhưng chàng bất động.

Chàng đứng trước mặt cầm hai tay tôi. Tôi nói: “Đừng gần em nữa!”. Song chàng không đi.

Chàng úp mặt bên tai tôi. Nhìn chàng tôi nói: “Sao anh lại thế!”. Nhưng chàng lặng thinh.

Môi chàng chạm vào má tôi. Rùng mình, tôi bảo: “Táo tợn quá chừng!”. Nhưng chàng chẳng tỏ vẻ ngại ngùng.

Chàng cài bông hoa lên tóc tôi. Tôi nói: “Vô ích lắm!”. Dẫu vậy chàng đứng thừ người không nhúc nhích. Chàng gỡ vòng hoa ở cổ tôi ra rồi mang đi. Mắt đẫm lệ, tôi tự hỏi lòng: “Sao chàng không lại?”



37.

Giai nhân ôi! Vòng hoa đẹp tươi em đang kết có thể nào em choàng lên cổ tôi chăng? Nhưng, phải biết vòng hoa duy nhất tự tay tôi kết là để tặng nhiều người, cho những người chỉ thoáng hiện, cho những người ở vùng đất hoang vu chưa ai khai phá, cho những người thi nhân xưng tụng trong các bài ca.

Đã quá muộn rồi khi muốn tình em tim tôi đền đáp lại.

Đã có một thời đời tôi như một nụ hoa, hương thơm còn ấp trong hoa ấy. Hương nay bay toả bốn phương trời. Ai biết vui nào diệu kỳ hơn khi hương kia thu lại được. Ai biết vui nào diệu kỳ hơn khi hương kia phong lại được?

Tim tôi là của mọi người; tim tôi không phải của tôi dành riêng cho một ai.


38.

Em yêu, xưa kia thi nhân của em đã từng ấp ôm đại mộng oai dũng phi thường.

Hỡi ôi! Thiếu cẩn trọng, tôi để mộng va vào vòng khuyên rổn rảng em đeo và rơi vào sầu não bi thương.

Mộng vỡ tan thành bài ca đoạn rồi vãi vung dưới chân em. Tôi chở đầy thuyền những truyện chiến chinh xa xưa; thuyền tôi nổi chỉm trong những đợt bóng cợt cười, thuyền ngấm đầy lệ rồi chìm sâu dưới nước.

Em yêu, hãy biến mất mát này thành may mắn cho tôi.Nếu khát vọng của tôi muốn lưu danh bất tử sau khi lìa đời đến nay đã tan từng mảnh, em hãy làm cho tôi bất tử ngay trên thế gian này.

Được vậy, tôi sẽ chẳng khóc than những gì đã mất và cũng chăngt trách oán chi em, người tôi yêu, yêu hết lòng.

39.

Suốt buổi sáng tôi cố kết cho xong vòng hoa, nhưng hoa cứ tuột tay rơi xuống đất.

Em ngồi đó lén nhìn tôi qua khoé mắt rình mò. Hãy hỏi đôi mắt ấy, đôi mắt mưu đồ, quái ác lỗi về ai?

Tôi cố cất tiếng ca một bài, song chẳng thể hát nên lời.
Một nụ cười kín đáo run nhẹ trên môi. Hãy hỏi nụ cười ấy vì sao tôi thất bại?

Hãy để làn môi em chúm chím cười tươi trên lời thề nguyền nói rõ vì sao giọng tôi tan vào thinh không như ong say mật ngã trong lòng bông sen.

Trời đã về chiều. Đã đến lúc ngàn hoa khép cánh. Hãy để tôi ngồi bên em, để môi tôi cất lên lời nói âm thầm dưới ánh mờ ảo của ngàn sao đêm.


40.

Nụ cười ngờ vực dập dờn ánh mắt lúc tôi tới ngỏ lời tạm biệt. Đã bao phen tôi tạ từ như vậy nhưng em lại tưởng dù có ra đi tôi cũng sớm trở về. Nói thật em trong thâm tâm tôi cũng ngờ như thế, vì ngày Xuân qua đi luôn luôn trở lại, vì trăng trong có đi chơi cũng chẳng đi hoài.

Năm rồi năm hoa lại đem sắc hồng nhuộm thắm cành cây; và rất có thể tôi chỉ tạ từ để rồi lại trở về lần nữa với em.

Nhưng đừng vội vàng để ảo tưởng ra đi, hãy nắm lấy dù trong giây lát. Khi tôi nói chúng mình mãi mãi xa nhau, hãy cứ cho là thực; xin cứ tin lời nhau, và riềm mắt huyền hãy để màn sương lệ khơi sâu. Rồi khi tôi trở lại hãy cười lên em, cười thoả thích dù nụ cười ranh mãnh đến đâu.



41.

Tôi khao khát nói lời tâm tình thầm kín nhất, những lời tôi phải nói với em, song còn ngần ngại vì sợ em sẽ bật cười chế nhạo mất thôi.

Đó là lý do tôi tự giễu mình đem những bí ẩn riêng tư ra đùa đùa cợt cợt.

Tôi xem nhẹ nỗi khổ đau riêng tư, vì sợ em cũng coi thường như thế.

Tôi khao khát kể cho em nghe lời thành thực nhất, những lời tôi phải nói với em, song còn ngần ngại, vì sợ em sẽ chăng tin đều tôi sắp nói.

Đó là lý do tôi nguỵ trang chúng thành điều không thực, rồi nói ngược lại những gì muốn nói. Tôi làm phi lý nỗi khổ đau riêng tư, vì sợ em cũng cho là như thế.

Tôi khao khát dùng lời quý mến nhất, những lời dành riêng cho em, song còn ngần ngại, vì sợ em sẽ chẳng đền bù giá trị tương đương.

Đó là lý do tôi nói với em lời phủ phàng và khoa trương lòng mình có sức mạnh chai lỳ. Tôi làm cho em đau khổ, vì sợ chưa bao giờ em biết khổ đau là gì.

Tôi khao khát ngồi im lặng bên em, song còn ngần ngại, vì sợ nỗi lòng riêng tư sẽ bộc lộ hết trên môi.

Đó là lý do khiến tôi bập bẹ, thì thầm và giấu kín lòng mình sau lời nói.

Tôi thẳng tay bóp nghẹt đau thương, vì sợ em cũng làm như vậy. Tôi khao khát rời em rồi đi thật xa, song còn ngâng ngại, vì sợ em sẽ biết lòng tôi chỉ là hèn nhát.

Đó là lý do khiến tôi ngẩng cao đầu, thẫn thờ bước tới trước em. Ánh mắt khăng khít em nhìn da diết khiến đau thương trong tôi mãi mãi mát tươi.


42.

Này gã điên, say mềm say miết. Nếu đạp tung cánh cửa rồi ra đường làm hề đùa giỡn; nếu giốc cạn hầu bao qua đêm thâu và chẳng thèm bận trí lo xa; nếu bước chân vào lối ngõ lạ kỳ rồi vui chơi với những gì vô dụng, thì cũng chẳng cần để ý thi ca cùng lý trí làm chi. Nếu trương buồm ra khơi trước khi phong ba ào tới, chắc anh sẽ làm gãy mái chèo. Lúc đó tôi sẽ theo anh, anh bạn ơi, tôi sẽ say tuý luý, sẽ trác táng bất cần đời.

Tôi đã tiêu hoang ngày tháng với những người láng giềng khôn ngoan, thận trọng.

Tôi biết quá nhiều nên tóc đã ngả màu tro. Tôi thấy quá nhiều nên mắt chẳng còn tinh sáng. Đã bao năm tôi gom góp, nhặt thu sự vật từng mẩu nhỏ, từng mảnh vụ để rồi lại bóp nát, giẫm chân lên và tung hê cho gió bốn phương, vì lẽ tôi hiểu tuyệt đỉnh của khôn ngoan là say luý tuý, là trác táng bất cần đời.

Cứ để mọi ưu tư, thắc mắc biến tan; cứ để mặc tôi hoàn toàn lạc lối. Cứ để men say choáng váng ùa tới cuốn tôi đi khỏi những ràng buộc.

Đời này chẳng thiếu người xứng đáng, người cần cù, người hữu dụng, người khôn ngoan. Có người dễ dãi lúc đầu, có người tao nhã về sau. Hãy cho họ hạnh phúc, giàu sang và xin để riêng tôi khùng dại, vật vời. Vì lẽ tôi hiểu cứu cách của mịu việc làm là say luý tuý, là trác táng bất cần đời.

Phút này tôi thể trả lại cuộc đời mọi mong cầu được đứng vào hàng những người đoan chính. Tôi buông trôi niềm kiêu hãng về kiến thức cùng nhận biết chính tà. Tôi sẽ đập ta con thuyền ký ức và rắc rơi giọt lệ cuối cùng. Với bọt rượu đỏ hồng tôi sẽ tắm nhuộm tiếng cười vang âm lanh lảnh. Ngay lúc này tôi sẽ xé nát hình thức kiên định cùng huy hiệu khiêm cung. Trịnh trọng tôi thề sẽ thành vô dụng, sẽ say luý tuý, sẽ trác táng bất cần đời.




43.

Không đâu các bạn, tôi sẽ chẳng bao giờ làm người ẩn sĩ dù cho các bạn có nói gì đi nữa. Tôi sẽ chẳng bao giờ là người ẩn sĩ nếu nàng không ước thề cùng tôi.

Tôi quyết tâm sẽ chẳng bao giờ thành ẩn sĩ nếu chưa tìm được nơi náu thân rợp mát và một bạn tâm giao để khổ hạnh cùng mình.

Không đâu các bạn, tôi sẽ chẳng bao giờ rời bếp lửa, mái nhà ấm êm để ẩn mình trong tịch mịch rừng xanh, nếu không có tiếng hớn hở vui cười vang ầm trong bóng mát, nếu không có tà áo vàng nghệ thuật phất phơ trong gió và nếu không có những tiếng thì thầm nhè nhẹ làm cho tịch mịch rừng xanh sâu thẳm thêm hơn.

Tôi sẽ chẳng bao giờ là người ẩn sĩ.



44.

Thưa cha tôn kính, xin cha tha thứ cho hai kẻ tội lỗi này. Gió Xuân hôm nay đang thổi mạnh từng cơn cuốn lôi đi cả cát bụi lẫn lá vàng cùng những điều cha chỉ giáo.

Xin cha đừng nói đời là hư không vì hai đứa chúng tôi chỉ một lần cầu hoà cùng thần chết và chỉ được thành bất tử trong vài giờ nhắn ngủi ngát hương.

Nếu quân lính nhà vua có hung hăng kéo lại, chúng tôi sẽ chỉ buồn bã lắc đầu mà nói: “Các anh đang quấy nhiễu chúng tôi. Nếu phải làm trò ồn ào này thì các anh cứ đem vũ khí đua tranh ở nơi nào khác. Vì chúng tôi chỉ được thành bất tử trong một vài khoảnh khắc dịu êm.

Nếu có người thân thiện tới hỏi, chúng tôi sẽ khiêm tốn cúi chào và nói: “Niềm may mắn quá chừng này làm chúng tôi bối rối. Trên bầu trời mênh mông, nơi chúng tôi sống, chốn ở thật hiếm khan. Vì lẽ mỗi độ Xuân về hoa nở tưng bừng, ong bay từng đám chen cánh rộn ràng. Thiên đường nhỏ bé nơi chỉ có hai người bất tử chúng tôi nương sống lại chật hẹp vô chừng".



45.

Với những người phải ra đi, hãy chúc họ điều may và xoá hết dấu chân in trên mặt đường.

Hãy hân hoan đón vào lòng cái gì dễ dãi, cái gì giản đơn, cái gì gần gũi.

Hôm nay là ngày hội của yêu ma; chúng chẳng biết khi nào sẽ chết.

Hãy để tiếng mình cười vang chỉ là nguồn vui vô nghĩa như tia sáng lấp lánh trên ngọn sóng lăn tăn.

Hãy để đời mình nhẹ nhàn nhảy múa bên biên giới thời gian như sương mai trên búp nhọn đầu lá.

Rồi dạo trên dây tơ cung điện dặt dìu nhặt lúc khoan.

46.

Em bỏ tôi ra đi đơn chiếc. Tôi nghĩ mình sẽ phải nhỏ lệ tiếc thương, phải khắc vào tim hình bóng em cô đơn để kết thành bài ca óng chuốt.

Nhưng mà số phận hẩm hiu, có bao lăm ngắn ngủi đời người.
Tuổi xanh úa tàn theo năm tháng, ngày Xuân lén lút ra đi, hoa mong manh chết dần vô ích. Có bận trí giả bảo tôi rằng đời chỉ là giọt sương mai đọng trến cánh lá sen.

Liệu có nên lãng quên tất cả điều này chỉ dõi theo một người đã dứt áo ra đi không một lời từ biệt? Làm như vậy thực sỗ sàng, ngớ ngẩn, vì lẽ có bao lăm ngắn ngủi đời người.

Vậy thì hãy lại đây những đêm mưa của ta với bước đi lộp bộp; hãy cười lên hỡi màu Thu vàng ửng; và hãy về đây hỡi tháng đầu Xuân vô tình, về đây để ban cho vạn vật muôn loài những nụ hôn trìu mến.

Em lại và em, em cũng lại?

Em yêu của tôi ơi, em đã rõ chúng mình là phàm nhân. Liệuc có khôn ngoan không nhỉ khi mở rộng lòng đón chờ một người đã hướng tâm hồn về nơi khác? Vì lẽ có bao lăm ngắn ngủi đời người.

Kể cũng thú vị khi ngồi vào một xó trầm tư rồi dẹt vân thơ; ý rằng em là vũ trụ của riêng tôi.

Kể cũng can trường khi ôm kín nỗi buồn riêng không cần một ai an ủi.

Nhưng có bộ mặt tươi vui ngó vào khung cửa; đưa mắt tìm mắt tôi. Tôi chẳng thể làm gì mà chỉ lau khô lệ ướt rồi đổi điệu bài ca. Vì lẽ có bao lăm ngắn ngủi đời người.



47.

Nếu em muốn, tôi sẽ ngừng tiếng hát.

Nếu lời tôi ca làm tim em rung động, tôi sẽ thôi không nhìn em nữa.

Nếu lưòi tôi ca bỗng dưng làm em sửng sốt trong lúc đang đi, tôi sẽ rẽ sang một bên và bước theo ngả khác.

Nếu lời tôi ca làm em bối rối trong lúc kết hoa, tôi sẽ tránh không vào vườn em vắng lặng.

Nếu lời tôi ca làm nước sông gợn sóng, dài ngày, tôi sẽ thôi không chèo thuyền lại gần bờ phía bên em.


48.

Em yêu! Hãy giải thoát anh khỏi dây giàng buộc âu yếm của tình em.

Thôi đủ rồi, xin đừng thêm nữa men rượu nồng của những nụ hôn trìu mến. Màn hương thơm này ngào ngạt làm ngộp tim anh.

Xin mở toang hết cửa dành không gian cho ánh nắng ban mai.Anh lạc lối trong em đắm chìm vào vòng tay ve vuốt.

Xin cho anh thoát khỏi ngải tình quyến rũ và trả lại nguồn sống thanh xuân để rồi trao lại em trái tim vừa thoát ách ngục tù.



49.

Tôi cầm tay nàng ghì chặt nàng vào ngực. Tôi cố ôm đầy trong tay mình dáng vẻ yêu kiều, đoạt cướp bằng môi mình nụ cười tươi tắn, uống cạn bằng mắt mình ánh mắt u huyền.

Nhưng mà tất cả đâu rồi nhỉ? Màu xanh ai có thể gạn lọc khỏi bầu trời?

Tôi cứ nắm chắc trong tay vẻ đẹp; vẻ đẹp thoát tuột chỉ để lại thân xác không hồn.

Rã rời, luýnh quýng, tôi hồi tỉnh. Làm sao thân xác sờ nắm được đoá hoa chỉ riêng tinh thần tiếp xúc nổi?



50.

Tình yêu, lòng ta ngày đêm khao khát gặp người – khao khát gặp cuộc gặp gỡ thật giống như cái chết nuốt trôi tất cả.

Hãy quét ta đi như phong ba bão táp, đoạt hết những gì ta có, phá tan giấc ngủ cùng mộng mị và chiếm hết vũ trụ của riêng ta.

Trong cảnh hoang tàn ấy, lúc tâm thần trần truồng tuyệt đối, hãy để hai ta hoà thành một trong vẻ đẹp tuyệt vời.

Hỡi ơi , ước mơ mãi hoài! Tìm đâu thấy hi vọng đoàn tụ như thế trừ nơi Người, Thượng đế của lòng tôi?



51.

Vậy thì hát nốt bài ca cuối cùng rồi hai ta chia tay?

Hãy quên đêm nay khi đêm không còn nữa.

Tôi đã cố ôm ai trong vòng tay mình nhỉ? Chẳng bao giờ lại giam cầm được mộng.

Hai tay tôi hăm hở ghì chặt hư không; hư không làm ngực tôi rát bỏng.

52.

Tại sao đèm phụt tắt?

Tôi lấy áo choàng ngăn gió cho đèn; đấy là lý do khiến đèn phụt tắt.

Tại sao hoa úa tàn?

Tôi ghì chặt hoa vào lòng với tình yêu ưu tư; đấy là lý do khiến hoa úa tàn.

Tại sao suối cạn nguồn?

Tôi đắp đập qua suối để lấy nước mình dùng; đấy là lý do khiến suối cạn nguồn.

Tại sao dây đàn phựt đứt?

Tôi cố ép một cung điệu ngoài sức dây tơ; đấy là lý do khiến dây đàn phựt đứt.



53.

Sao em làm tôi xấu hổ vì ánh mắt em nhìn? Tôi không tới đây như một tên hành khất. Tôi chỉ đứng trong một giờ ngắn ngủi ở sân nhà em bên ngoài hàng dậu ngăn cách khu vườn.

Sao em làm tôi xấu hổ vì ánh mắt em nhìn?

Tôi chưa hái bông hoa nào trong vườn nhà em, tôi chửa ngắt trái cây nào trong vườn hà em. Tôi chỉ khiêm nhường tạm trú dưới bóng mát vệ đường, nơi khách vãng lai xa lạ cũng có thể dừng chân. Tôi chưa hề ngắt bông hồng nào cả.

Vâng, chân tôi đã mỏi nhừ và mưa rào đang trút nước. Gió từng cơn than van trong những cành tre nghiêng ngả; mây thành từng cụm bay ngang bầu trời như kẻ bại vong. Chân tôi đã mỏi nhừ.

Tôi chẳng hiểu em nghĩ gì về tôi đang đứng chờ ai ngoài ngõ. Tia chớp làm loé đôi mắt em trông chờ. Làm sao có thể biết em đã nhìn thấy tôi đứng trong bóng tối? Tôi chẳng hiểu em nghĩ gì về tôi.

Ngày tàn và mưa giây lát. Tôi từ giã bóng mát trùm cây cuối vườn nhà em và cả chỗ ngồi nữa trên thảm cỏ màu xanh.

Màn đêm buông kín; thôi khép cửa lại, tôi đi đường tôi. Ngày tàn rồi.



54.

Em cắp thúng vội vã đi đâu lúc này chiều muộn khi chợ tan rồi? Thiên hạ ai nấy đều về nhà, gánh gồng nặng trĩu. Mặt trăng đã hé nhìn vòm cây trong thôn làng.

Tiếng vọng của người gọi thuyền sang sông vang trên mật nước tối om lan đến tận bãi lầy xa tít, nơi bầy vịt trời đang yên giấc ngủ ngon.

Em cắp thúng vội vã đi đâu khi chợ tan rồi?

Giấc ngủ đã đặt tay ngà lên mi trái đất.

Nơi nơi chim chóc đều nằm im trong tổ ấm; tiếng lá tre thì thầm cũng bặt thinh. Từ đồng ruộng nông dân trở về; họ trải chiếu trên sân nằm nghỉ. Em cắp thúng vội vã đi đâu khi chợ tan rồi?



55.

Anh ra đi vào giữa buổi trưa.

Trên cao mặt trời hừng hực.

Em đã làm xong công việc và lúc anh ra đi trên bao lơn đơn chiếc riêng một em ngồi.

Gió từng cơn lách qua những cánh đồng xa ngát hương. Trong bóng râm đồng bầy bồ câu trắng gụ liên hồi; một con ong lạc lối vào phòng em ngân nga tin tức những cánh đồng xa xa.

Trong hơi nóng giữa thôn làng im lìm ngủ.

Con đường nằm vắng lặng hoang sơ.

Tiếng lá cuộn từng cơn bất chợt xào xạc rồi lại êm ru. Em đăm đăm nhìn trời xanh và dệt trên nền trời những chữ mang tên một người, một tên mình đã biết, trong khi thôn làng thiếp ngủ dưới ánh nắng giữa trưa.

Em bẵng quên không vấn vành tóc. Ngọn gió thẩn thờ đùa với mớ tóc xoã buông trên má. Dòng sông lững lờ trôi bên bờ cây râm mát. Những đám mây trắng lười lĩnh không buồn bay. Em bẵng quên vấn vành tóc lỏng buông.

Anh ra đi vào giữa buổi trưa.

Cánh đồng thở hổn hển, bụi đường nóng bốc hơi.

Trong đám lá um tùm bồ câu trắng thi nhau gụ.

Lúc anh ra đi trên bao lơn đơn chiếc riêng một mình em ngồi.

56.

Cũng như bao người đàn bà bận bịu em làm công việc nội trợ âm thầm.

Sao anh nỡ đẩy em ra khỏi cuộc sống của chúng mình nơi chở che mát dịu?

Tình yêu thầm lặng là tình yêu thiêng liêng; trong bóng tối mờ trái tim ẩn kín tình yêu rực sáng như trân châu; trong ánh sáng ban ngày kỳ lạ tình yêu lại lu mờ một cách thảm thương.

Phải, anh đã phá đường vào tim em, lôi ra ánh sáng tấm lòng em run rẩy và vĩnh viễn đạp tan xó nhà mát dịu nơi em nương náu mối tình.

Những người đàn bà khác cũng hằng như thế.

Chưa một ai đã nhìn họ để tìm con người sầu kín bên trong, chính họ cũng không hiểu những nỗi lòng bí ẩn riêng tư.

Thanh thản họ cười, tự nhiên họ khóc, chuyện trò, làm lụng.
Hàng ngày đi lễ, làm bếp, gánh nước bên sông.

Em hi vọng tình em sẽ thoát niềm tủi hổ, tủi hổ rẩy run của những người không nơi nương tựa, nhưng anh ngoảnh mặt chẳng thèm đoái thương.

Vâng, đường anh đi thênh thang trước mặt, song anh đã ngăn lối em về để em bơ vơ trần trụi trước mắt thế gian trừng trừng ngày đêm nhìn ngắm.



57.

Ôi trần gian! Ta ngắt bẻ cành hoa người đang nuôi sống!

Ta ép hoa vào lòng gai nhọn đâm sâu.

Lúc ngày tàn, trời tối ta thấy hoa héo úa, nhưng đau đớn còn nguyên.

Ôi trần gian! Còn nhiều hoa khác sẽ đến với ngươi, với hương thơm ngào ngạt và kiêu hãnh tràn đầy!.

Nhưng thời gian hái hoa của ta không còn nữa.

Suốt đêm tối ta chẳng có bông hồng mình thích, nhưng đau đớn còn đây.



58.

Một sớm mai trong vườn đầy hoa có người thiếu nữ mù tới cho tôi vòng hoa gói kín trong chiếc lá sen.

Tôi choàng hoa lên cổ, mắt ứa lệ.

Tôi hôn nàng và nói: “Em mù đúng lúc những hoa này nở. Chắc em cũng chẳng rõ quà em cho tôi đẹp biết chừng nào.”


59.

Ôi đàn bà, các người không phải chỉ là vật do bàn tay hoá công tạo tác, nhưng cũng còn là vật do bàn tay đàn ông tác tạo mà thành! Cả hai vẫn hằng ban cho các người vẻ đẹp ấp ủ trong tim.

Thi nhân dệt cho các người một màn tơ lưới đầy hình ảnh óng vàng; họa sĩ tô điểm thân hình các người nét bất tử mới mẻ luôn luôn.

Biển cả dâng ngọc báu, hầm mỏ dâng bạc vàng, vườn xuân đẹp dâng để các người điểm trang, che phủ và làm tăng thêm quí báu.

Ước muốn từ tim đàn ông tiết ra đã rắc vung rực rỡ tô thắm các người trẻ trung thêm mãi.

Các người nửa là mộng đẹp nửa đàn bà.



60.

Giữa dòng đời ồn ào, náo nhiệt, ôi Đẹp, khắc sâu vào đá xám, em đứng lặng thinh, im lìm, đơn chiếc, xa xăm.

Thời gian già nua quì dưới chân em, đắm đuối, thì thầm: “Em yêu, hãy nói, nói với anh, tâm sự cùng anh, người em thương mến!”.

Song lời em đã vùi sâu vào đá xám, ôi Đẹp Bất Động Thản Nhiên!.



61.

Người em của lòng tôi, hãy bình tâm và giữ cho giây phút chia tay này êm đẹp mãi.

Đừng để phút giây ấy biến thành chết chóc mà thành hoàn hảo vẹn tròn.

Hãy để tình yêu tan vào ký ức và đau đớn chìm trong lời ca.
Hãy để chuyến bay ngang bầu trời kết thúc bằng đôi cánh xếp lại trong tổ ấm.

Hãy để bàn tay em vuốt ve lần cuối dịu dàng như bông hoa nhẹ nở về đêm.

Đừng cất bước lúc này, ôi Cứu Cánh Diễm Kiều, hãy nói lời cuối cùng trong thầm lặng.

Tôi cúi đầu, tay giơ cao đèn soi sáng bước em đi.



62.

Tôi men theo lối đi âm u của mộng đẹp để kiếm tìm người yêu kiếp trước.

Nhà nàng ở cuối con đường hiu quạnh. Lúc gió đềm về nhè nhẹ con công nàng nâng niu thiêm thiếp trên cần đậu và bầy bồ câu trắng nằm trong tổ ấm im lìm.

Nàng đặt cây đèn gâng cổng rồi đứng trước mặt tôi. Nàng mở to đôi mắt nhìn tôi rồi thầm lặng hỏi: “Bạn lòng ơi, anh có mạnh khoẻ không?”. Tôi cố sức trả lời, song chúng tôi đã đánh mất ngôn từ và quên hết.

Tôi suy nghĩ và suy nghĩ; tên hai đứa chẳng hiện ra trong trí. Mắt ứa lệ, nàng đưa bàn tay phải cho tôi. Tôi cầm tay nàng rồi đứng lặng im.

Cây đèn bên cạnh chúng tôi lung linh trong gió rồi vụt tắt.



63.

Lữ khách, anh phải đi chăng?

Đêm hãy còn im lìm và màn tối đang phủ nặng rừng cây.

Đèn trên bao lơn nhà chúng tôi rực sáng, hoa nở thắm tươi, và những đôi mắt trẻ trung vẫn còn tỉnh táo.

Đã đến giờ anh đi rồi sao?

Lữ khách, anh phải đi chăng?

Chúng tôi chẳng thể buộc chân anh lại bằng vòng tay cầu khẩn. Cửa đã mở, ngựa sẵn yên cương chờ anh ngoài cổng. Nếu chúng tôi có cố ngăn bước anh đi thì cũng không có gì ngoài bài ca chia tay. Nếu có bao giờ chúng tôi cố níu chân anh lại thì cũng không có gì ngoài ánh mắt nhìn theo. Lữ khách, chúng tôi chẳng có gì giữ anh lại, chỉ trừ nước mắt mà thôi.

Trong mắt anh lửa nào hừng hực sáng?

Trong máu anh cơn say nào triền miên chảy?

Thôi thúc anh tiếng gọi nào vọng từ bóng đêm?

Lời chú ghê rợn nào anh đã đọc dưới trời sao để đêm tối đi vào tìm anh, với lệnh truyền bí mật niêm phong âm thầm, xa lạ?
Nếu anh không màng tới các buổi gặp gỡ vui vui, nếu anh lại cần yên tịnh, hỡi trái tim mệt mỏi, chúng tôi sẽ tắt đèn và ngưng ngay tiếng đàn.

Chúng tôi sẽ ngồi im lặng trong bóng đêm giữa tiếng lá cây sột soạt; mặt trăng mệt nhọc sẽ giải ánh xanh xao trên cửa sổ nơi anh ngồi.

Ồ lữ khách, u hồn nào khắc khoải đã nhập vào anh đứng giữa đêm khuya?



64.

Suốt ngày tôi ngồi chơi trên bụi đưòng nóng bỏng. Bây giờ đêm xuống trời mát dịu, tôi tới gõ cửa quán trọ. Quán vắng tanh, nằm hoang tàn.

Cây át-ha lãnh đạm trải rễ đói khát, ngoằn ngèo qua vết tường nứt nẻ há hốc.

Đã có ngày khách qua đường tới đây rửa đôi chân thấm mệt. Họ trải chiếu trên sân thượng dưới ánh trăng non lờ mờ rồi nghỉ ngơi trò chuyện về những miền xa xôi.

Sáng đến thức dậy họ cảm thấy sảng khoái khi chim chóc líu lo, khi những bông hoa hiền lành đứng bên vệ đường gật đầu chào đón.

Nhưng lúc tôi tới đây, không có đèn thắp sáng đợi chờ. Trên tường quán, do ánh đèn thắp đêm bị bỏ quên, những vệt khói đen còn sót lại trừng trừng nhìn trông giống như những cặp mắt đui mù.

Trong bụi rậm gần một ao cạn nước đom đóm lập loè bay; cành tre vươn bóng trên lối mòn rậm cỏ.

Tôi là người khách cô độc lúc ngày khép kín.

Đêm trải dài trước mặt, tôi đã mệt nhừ.



65.

Em lại gọi lần nữa?

Đêm đã xuống từ lâu. Mệt mỏi giăng mắc quanh tôi như vòng tay tình yêu quyến rũ. Em gọi tôi phải không em?

Ôi người đẹp tàn ác, ngày dài tôi đã dâng em trọn vẹn còn đêm trường em muốn chiếm nốt nữa sao?

Mọi việc tất sẽ chấm dứt ở nơi nào đó, song đêm dài cô liêu phải thuộc riêng mình. Sao em phải lên tiếng gọi để phá tan đêm tối cô liêu và bóp nát lòng tôi?

Thế đêm không có giai điệu chờ sẵn ngoài cổng để ru em vào mộng đẹp? Thế sao trên trời khép cánh im lìm thôi không xuất hiện trên đỉnh tháp vô tình nơi em đang đứng? Thế hoa trong vườn nhà em không còn rũ cánh chết nhẹ nhàng trên mặt đất nữa ư?

Sao phải gọi tôi, hỡi người em da diết?

Thôi cứ để mắt buồn của tình yêu ngóng chờ và nhỏ lệ, để đèn toả sáng trong căn nhà quạnh hiu, để thuyền đưa công nhân mỏi mệt về nhà.

Tôi bỏ lại sau mình mộng đẹp, hối hả theo tiếng em đang gọi.



66.

Tóc kết thành lọn, mình dính đầy bùn, làn da xạm nắng, người gầy đét như một cái bóng, môi mím chặt như cửa tâm hồn khép kín, mắt nẩy lửa hệt đom đóm lập loè bay tình nhân, gã điên lang thang tìm kiếm hòn đá thử vàng.

Trước mặt gã biển xanh mênh mông gầm thét. Sóng bạc đầu huyên thuyên trò chuyện về những kho tàng chôn dấu, giễu nhạo kẻ ngu xuẩn không hiểu ý nghĩa lời sóng nói.

Có lẽ lúc này gã đang tuyệt vọng. Dẫu vậy, chẳng chịu bó tay, vì đối với gã cuộc kiếm tìm đã trở thành lẽ sống.

Cũng như biển cả mãi mãi vươn tay lên bầu trời tìm cái không thể với được.

Cũng như các vì sao xoay vần kiếm mục tiêu chẳng bao giờ tới được.

Dẫu thế, trên bờ hoang lạnh, gã điên, tóc hung vàng bụi bám, vẫn thơ thẩn tìm hòn đá thử vàng.

Một hôm có em nhỏ từ làng ra hỏi: “Ông ơi, đi đâu mà bụng đeo dây chuỗi vàng nặng thế?”

Gã điên bàng hoàng - chuỗi gã đeo trước kia là sắt bây giờ biến thành vàng thực sự. Chẳng phải rằng mơ; tuy nhiên gã không rõ dây chuỗi biến dạng lúc nào.

Gã nắm tay đập trán lia lịa – dây chuỗi biến thành báu vật ở chỗ nào, ừ ở chỗ nào mà gã không hay?

Gã có thói quen lượm nhặt cuội sỏi, vuốt ve dây chuỗi và ném cuội sỏi ra xa mà chẳng thèm nhìn theo xem chúng thay đổi như thế nào. Cứ thế gã điên tìm thấy rồi lại vất đi hòn đá thử vàng.

Mặt trời đang chìm sâu ở phương Tây, bầu trời vàng ửng. Gã điên lê gót trở lại kiếm tìm lần nữa báu vật không còn, sức kiệt quệ, thân lom khom, tâm hồn lấm bụi tựa cây cao bật rễ đổ kềnh.



67.

Dù chiều xuống dần chầm chậm ra hiệu cho lọi lời ca bặt tiếng;

Dù bạn bè mi đã ngon giấc trong tổ ấm và mi đã mệt nhoài;

Dù hãi hùng đang bao trùm đêm tối và bầu trời mây phủ kín bưng;

Song, chim , chim của ta ơi, lắng nghe lời ta nói, đừng vội khép cánh ngừng bay chim nhé.

Đó không phải là vẻ âm u của lá rừng; đó là sóng biển dâng cao như con rắn đen ngòm; đó không phải là vũ điệu của loài hoa nhài phảng phất; đó là bọt biển bay tung. Ờ mà bờ biển xanh ngập nắng ở phương nào nhỉ? Ờ mà tổ ấm của mi ở nơi nào nhỉ? Chim, chim của ta ơi, lắng nghe lời ta nói, đừng vội khép cánh ngừng bay chim nhé.

Đêm quạnh hiu trải dài trước hướng mi đi; bình minh còn ngon giấc sau đồi cây rợp bóng.

Sao trên cao nín thở đếm thời gian; trăng ẻo lả bơi trong đêm im lặng. Chim, chim của ta ơi, lắng nghe lời ta nói, đừng vội khép cánh ngừng bay chim nhé.

Mi không nuôi hy vọng, không bận âu lo.

Mi không kêu la, thì thầm, than van.

Mi không nhà, không giường để nghỉ.

Mi chỉ có đôi cánh riêng tư và bầu trời bao la.

Chim, chim của ta ơi, lắng nghe lời ta nói, đừng vội khép cánh ngừng bay chim nhé.

Bụt trong ta, Chúa trong ta

Thích Nhất Hạnh

Giới thiệu: Bài nầy do Chân Văn dịch từ Chương Bốn trong quyển "Living Buddha, Living Christ", của Thích Nhất Hạnh, Riverheads Book xuất bản, 1995. Quyển sách gồm nhiều bài giảng bằng Anh ngữ của Thầy, được ghi âm, chép lại và nhuận sắc. Ðây là một quyển sách đã bán được rất nhiều trong loại sách về tôn giáo và tâm linh ở California, Hoa Kỳ. Theo lối quen dùng trong các sách Việt ngữ của Thầy, từ "Buddha" được dịch là "Bụt", một từ trong tiếng Việt cổ dùng để phiên âm "Buddha" khi đạo Phật được truyền vào Việt Nam vào đầu kỷ nguyên Tây lịch. Về sau, từ khi người Việt dùng kinh sách chữ Hán, từ "Phật" hay "Phật Ðà" (tiếng Hán Việt) được dùng thay từ "Bụt". Bài dịch nầy đã được đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21, California, Hoa Kỳ, tháng 11-1995.

Cuộc đời Ngài là Giáo Lý

Có một khoa học gọi là Phật học, đó là học về cuộc đời của Bụt. Bụt là một nhân vật có thật trong lịch sử. Bụt sinh ra ở thành Kapilavatsu (Ca Tì La Vệ), gần biên giới Ấn Ðộ và Nepal. Ngài thành hôn, có một con, xuất gia, giác ngộ, và chia sẻ giáo pháp của Ngài cho đến năm tám mươi tuổi Ngài tịch. Nhưng cũng có một vị Bụt ở trong mỗi người chúng ta, không tùy thuộc vào thời gian và không gian. Ðó là Ðức Bụt Sống, vị Bụt của sự thật sau cùng, vượt trên các ý nghĩ và khái niệm, và lúc nào chúng ta cũng gặp được. Vị Bụt Sống đó không sinh ra ở Kapilavatsu và cũng không tạ thế ở Kushinagar.

Ki Tô Học là môn học về cuộc đời Chúa Ki Tô. Khi nói Chúa Ki Tô, chúng ta cũng cần biết đang nói về Chúa Giêsu trong lịch sử hay Ðức Ki Tô Hằng Sống. Chúa Ki Tô trong lịch sử sinh tại Bê Lem, con của một người thợ mộc. Ngài rời quê hương xa, trở thành một đạo sư, và bị đóng đinh trên thập tự vào năm ba mươi ba tuổi. Ðức Ki Tô Hằng Sống là Con của Thượng Ðế, đã phục sinh, và nay vẫn còn tiếp tục sống. Trong Ki Tô Giáo, bạn phải tin vào sự Phục Sinh, nếu không thì bạn không phải tín đồ. Tôi e rằng điều kiện nầy làm nhiều người e ngại, không chịu nhìn sâu vào cuộc đời Chúa Giêsu. Thật đáng tiếc, vì chúng ta có thể học hỏi cả nơi Chúa Giêsu trong lịch sử lẫn Chúa Giêsu như một cánh cửa tuyệt đối.

Khi chúng ta theo dõi và tiếp xúc một cách sâu sắc với cuộc đời và giáo lý của Chúa Giêsu, chúng ta có thể thâm nhập vào sự thật của Thượng Ðế. Tình yêu, sự hiểu biết, lòng can đảm, sự bao dung, là những biểu hiện của cuộc đời Chúa Giêsu. Thượng Ðế xuất hiện với chúng ta qua Giêsu Ki Tô. Với Thánh Linh và Nước Chúa ở trong Ngài, Giêsu đã tiếp xúc với mọi người sống cùng thời của Ngài. Ngài đã nói chuyện với những cô gái điếm, những người thâu thuế, Ngài có can đảm làm bất cứ việc gì cần thiết để chữa các căn bệnh của thời đại Ngài. Như là đứa con của mẹ Maria và thánh Giuse, Giêsu là Con của Người, Người Nam và Người Nữ. Như một người sống với Thánh Linh, Ngài là Con của Thượng Ðế. Nói rằng Chúa Giêsu vừa là Con của Người, vừa là Con của Thượng Ðế, các Phật tử có thể chấp nhận không khó gì. Chúng ta có thể thấy Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con là một, bất nhị, vì nếu không có Ðức Chúa Cha ở trong Ngài thì không có Ðức Chúa Con. Tuy nhiên, trong Ki Tô Giáo, Giêsu thường được gọi là Con Một của Thượng Ðế. Tôi thấy chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm cuộc đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của Ngài. Tôi nghĩ cuộc đời Chúa Giêsu là bài học căn bản nhất của Ngài, quan trọng hơn cả sự phục sinh và tính vĩnh cữu.

Sống tỉnh thức là Bụt

Bụt là người giác ngộ, nghĩa là không còn bị ràng buộc vào thế tục. Nhưng khi nhiều người nói rằng họ tin Bụt, họ đang nói về niềm tin vào vị Bụt thần thông, huyền diệu, không phải niềm tin vào giáo lý hay cuộc đời của vị Bụt lịch sử. Họ tin vào sự mầu nhiệm của Bụt, và thấy như vậy là đủ. Nhưng các thí dụ trong cuộc đời thật của Bụt và Chúa Giêsu quan trọng hơn, vì khi các Ngài sống như những con người thật, chúng ta có thể bắt chước, sống theo mẫu đời sống của các Ngài.

Khi chúng ta đọc, "Cửa trời mở rộng và Thánh Linh giáng xuống Ngài như một con chim bồ câu," chúng ta có thể thấy hình ảnh Chúa Giêsu đã giác ngộ. Ngài đã tiếp xúc được với sự thật của đời sống, nguồn suối của tỉnh thức, của minh triết và trí tuệ ở trong Ngài. Ðó là điều phân biệt Ngài với người phàm tục. Khi Ngài sinh ra trong một gia đình người thợ mộc, Ngài là Con của Người. Khi Ngài mở rộng trái tim, cánh cửa thiên đường đã mở ra cho Ngài. Thánh Linh đã ngự xuống Ngài như một con chim bồ câ, và Ngài biểu hiện như là Con của Thượng Ðế - rất thiêng liêng, sâu sắc, và vĩ đại.

Nhưng Thánh Linh không phải chỉ ngự xuống Giêsu không thôi, mà cho tất cả chúng ta. Trong nhãn quan Phật Giáo, ai không phải là con của Thượng Ðế? Ngồi dưới gốc cây bồ đề, những hạt giống thiêng liêng và huyền diệu ở trong Bụt bừng nở. Ngài là một người, nhưng đồng thời Ngài cũng thị hiện tâm linh nhân loại đến mức cao nhất. Khi chúng ta tiếp xúc được với tâm linh tối thượng trong chúng ta, chúng ta là Bụt. Chúng ta mang ơn Thánh Linh, và chúng ta trở nên rất bao dung, rất cởi mở, sâu xa, và thông cảm.

Những cánh cửa mở ra cho các thế hệ sau

Kinh Thánh Mathiơ tả Nước Chúa giống như một hạt cải nhỏ xíu. Ðiều đó có nghĩa là hạt giống của Nước Chúa ở sẵn trong chúng ta. Nếu chúng ta biết vun trồng hạt giống đó trong mảnh đất mầu của cuộc sống hằng ngày, nó sẽ lớn lên và thành một cây cao cho chim chóc đến trú ẩn. Chúng ta không cần phải chết đi mới tới được cửa thiên đàng. Thật ra chúng ta cần phải sống đích thực. Việc tu tập là tiếp xúc sâu xa với sự sống để Nước Chúa trở thành sự thật. Ðây không phải là chuyện sùng tín. Ðây là chuyện thực tập. Có thể vào Nước Chúa bây giờ và ở đây. Nhiều đoạn trong Phúc Âm cũng có cách nhìn nầy. Chúng ta đọc Kinh Lạy Cha, rằng chúng ta không đi tới Nước Chúa, nhưng Nước Chúa sẽ đến với chúng ta: "Nước Ngài sẽ tới ..." Giêsu nói, "Ta là cánh cửa vào." Ngài tự mô tả là cánh cửa của Nước Chúa. Vì Ðức Chúa Con được tạo nên bằng Ðức Thánh Linh, Ngài là cánh cửa để chúng ta vào Nước Chúa.

Bụt cũng được mô tả như là một cánh cửa, là vị đạo sư chỉ đường cho ta sống trong đời. Phật tử tu học con đường đó một cách sâu xa để giúp ta sống trong chánh niệm, từ bi, và an lạc. Kinh sách nói có 84 ngàn pháp môn, cánh cửa của sự tu học. Nếu bạn may mắn tìm thấy một cánh cửa, và cho rằng cánh cửa của bạn là cánh cửa duy nhất, thì đó không phải là tinh thần đạo Bụt. Thật ra, chúng ta phải mở ra thêm nhiều cánh cửa mới cho các thế hệ tương lai. Chúng ta đừng sợ có quá nhiều cánh cửa - đúng ra, ta nên lo ngại không có thêm những cánh cửa mới. Thật tội nghiệp cho con cháu chúng ta, và con cháu của họ, nếu chúng ta hài lòng với 84 ngàn cánh cửa hiện có. Mỗi người chúng ta, với sự tu tập và tâm từ bi, có thể mở ra những Cánh Cửa Pháp mới.

Xã hội đang biến đổi, con người thay đổi, đời sống chính trị và kinh tế ngày nay không còn giống như thời Bụt và Chúa nữa. Bụt trông cậy nơi chúng ta để Giáo Pháp tiếp tục phát triển như một thực thể sống động - không phải một giáo pháp cứng đọng, mà là một Pháp Thân (Dharmakaya), một thực thể giáo lý thiêng liêng.

Bà mẹ sinh ra các vị Bụt

Bụt dạy Pháp thân của Ngài quan trọng hơn nhục thân. Ngài muốn dạy chúng ta phải thực hành Giáo Pháp để đạt tới Niết Bàn ở đây và bây giờ. Giáo Pháp sinh động không phải là những thư viện chứa kinh điển hay các băng thâu những bài giảng hay. Pháp sinh động là sống tỉnh thức trong chánh niệm, biểu hiện trong cuộc sống hằng ngày của Bụt cũng như của quý vị. Khi tôi nhìn thấy quý vị bước đi với chánh niệm, tôi tiếp xúc được với sự an lạc, với sự hiện diện của quý vị một cách sâu xa. Khi quý vị săn sóc các anh chị em của mình, tôi nhìn thấy Giáo Pháp sống động trong quý vị. Nếu có chánh niệm, quý vị có thể tiếp xúc với Pháp thân của Bụt.

Bụt mô tả những hạt giống của tỉnh thức trong mỗi chúng ta là "Như Lai Mẫu" (tathagatagarbha). Chúng ta đều là "mẹ của Như Lai" vì trong lòng chúng ta đều mang sẵn hạt giống của tỉnh thức. Nếu chúng ta đều săn sóc vị Bụt sơ sinh trong mình bằng sự thực tập tỉnh thức mỗi ngày, một ngày nào đó Ðấng Giác Ngộ sẽ đến với chúng ta. Các Phật tử nhìn Bụt như một vị thầy và một người anh, không phải là một thần linh. Chúng ta đều là Pháp huynh Pháp đệ của Bụt. Chúng ta cũng nói Trí Tuệ Bát Nhã (Prajnaparamita) là mẹ của tất cả các vị Bụt. Trong lịch sử, các giáo phái Tin Lành giảm bớt hình ảnh Mẹ trong Thượng Ðế và đề cao vai trò Cha của Ngài, nhưng trong Giáo hội Công Giáo có sự sùng kính Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời.

Thật ra Mẹ và Cha là hai phương diện của cùng một thực thể. Hình ảnh người cha hiện rõ hơn trong Trí Tuệ và Hiểu Biết, người Mẹ trong Tình Thương và Từ Bi. Trong đạo Bụt, hiểu biết (prajna) là căn bản của thương yêu (maitri). Nếu không có hiểu biết thì không có tình thương đích thực, và không có tình thương thì không có hiểu biết đích thực.

Người con gái của Thượng Ðế

Người ta gọi Bụt bằng mười danh hiệu, mỗi danh hiệu biểu lộ một phẩm chất. Danh hiệu thứ nhất, Như Lai (Tagatatha), tức là "vị đến với chúng ta trên đường chánh", "vị đến từ sự thật mầu nhiệm của sự sống và sẽ trở về sự thật mầu nhiệm đó", hay "vị đến từ cõi như vậy, ở trong cõi như vậy, và quay về cõi như vậy". Như là danh từ Phật giáo nói đến Chân Như, bản chất của sự vật, hay sự thật tối hậu. Ðó là bản thể hay nền tảng của sự hiện hữu, ví như nước là bản thể của sự sống. Cũng như Bụt, chúng ta cũng tới từ Chân Như, ở tại Chân Như, và sẽ quay về Chân Như. Chúng ta từ cõi Không mà đến và sẽ trở về cõi Không.

Trong một bài kinh, Phật nói rằng hình sắc chúng ta thây là do các nhân duyên tạo thành, khi không đủ nhân duyên thì chúng ta không thấy. Khi có đủ nhân duyên thì chúng ta nhận ra một hiện tượng, chúng ta thấy hiện tượng là có thật. Nhưng khi một trong các nhân duyên vắng mặt, chúng ta không nhận ra hiện tượng đó nữa. Ta không thấy nên nói là nó không hiện hữu. Nhưng điều đó không đúng. Vào mỗi tháng Tư ở Làng Hồng, chúng ta không nhìn thấy hoa hướng dương nở, chúng ta có thể nói hoa hướng dương không hiện hữu. Nhưng các nông dân ở ngôi làng tại miền Nam nước Pháp này đã gieo hàng ngàn hạt giống xuống đất. Khi nhìn ngọn đồi trơ trọi, họ có thể thấy các hoa hướng dương rồi. Hoa hướng dương đã có mặt ở đó. Chúng chỉ còn thiếu các nhân duyên của mặt trời, sức nóng, mưa, và thời gian. Không phải vì ta không thấy mà hoa hướng dương không hiện hữu.

Cũng theo cách đó, chúng ta nói Ðức Như Lai không từ đâu tới mà cũng không đi về đâu cả. Ngài tới từ cõi Chân Như và trở về Chân Như, không phụ thuộc vào thời gian và không gian. Nếu quý vị đi qua thửa ruộng bên Làng Hồng vào tháng Tư, và xin cánh đồng cho quý vị thấy Chân Như, thấy Nước Chúa, các thửa ruộng bỗng nhiên sẽ phủ đầy hoa hướng dương vàng chói rực rỡ. Khi Thánh Phan Xi Cô (St Francis) nhìn quán chiếu sâu xa một cây hạnh nhân vào giữa mùa đông và bảo cây hãy nói cho ngài nghe về Thượng Ðế, cây bỗng bừng nở đầy hoa.

Danh hiệu thứ hai của Bụt là A La Hán, vị xứng đáng được tôn kính. Danh hiệu thứ ba là Thiện Thệ, vị hoàn toàn tỉnh thức. Thứ tư là Minh Hạnh Túc, vị có trí tuệ và đức hạnh đầy đủ. Thứ năm là Vô Thượng Sĩ, vị dẫn đường không ai hơn. Thứ sáu là Thế Gian Giải, người biết rõ thế giới nầy. Thứ bảy là Ðiều Ngự Trượng Phu, người đi trên con đường tự tại. Thứ tám là Thiên Nhân Sư, thầy của thần linh và người. Danh hiệu thứ chín của Ngài là Bụt (Buddha, Phật Ðà), bậc giác ngộ. Danh hiệu thứ mười là Ðức Thế Tôn, bậc đầy phúc báu.

Mỗi khi chúng ta quy y, quay về nương tựa Bụt, chúng ta tìm nương tựa vào một vị có đủ mười đức tính trên, đó cũng là hạt nhân có sẵn trong mỗi người. Thái tử Tất Ðạt Ða (Siddharta) không phải là vị Bụt duy nhất. Mọi vật trong thế giới cây cỏ, muông thú và khoáng chất đều là các vị Bụt tương lai. Tất cả chúng ta đều chứa sẵn mười đức tính của Bụt trong thâm căn của mình. Nếu chúng ta thể hiện được mười đức tính đó thì sẽ được tôn kính.

Tôi thấy trong Phép Rửa Tội là sự công nhận của mỗi người, khi mở lòng ra đón Thánh Linh, đều có khả năng thể hiện mười đức tính trên, đó cũng là những đức tính để trở thành các người con của Chúa. Trong đạo Bụt, chúng ta không nói đến Tội Tổ Tông, nhưng nói đến các Chủng Tử Bất Thiện, là những hạt giống có sẵn trong mỗi người - hạt giống của tham lam, hận thù, giận dữ, ngu si, cố chấp, v.v... - và chúng ta nói đến các hạt giống trên có thể được chuyển hóa khi chúng ta tiếp xúc với các đức tính của Bụt. Các đức tính đó cũng có sẵn hạt giống trong chúng ta. Tội tổ tông cũng có thể được chuyển hóa khi một người tiếp xúc với Thánh Linh. Giêsu là con của Thượng Ðế và con của Người. Chúng ta cũng là con của Thượng Ðế và của song thân chúng ta. Nghĩa là chúng ta thuộc về cùng một thực tại như Giêsu. Ðiều này có thể coi như là tà thuyết đối với một số người Ki Tô Giáo. Nhưng tôi tin những nhà thần học đã nói là không cần phải nghĩ như vậy. Giêsu không phải chỉ là Chúa của chúng ta. Ngài còn là Cha, là Thầy, là Anh, và là Chính chúng ta. Nơi duy nhất chúng ta có thể tiếp xúc với Giêsu và Nước Chúa là ở trong nột tâm mình.

Chúng ta tiếp tục ra đời

Khi chúng ta làm lễ Chúa Giáng Sinh hay lễ Phật Ðản, chúng ta mừng sự ra đời của những hài nhi đặc biệt. Sự giáng sinh của Chúa và đản sinh của Bụt là các biến cố quan trọng trong lịch sử loài người. Mấy ngày sau khi Bụt ra đời, nhiều người ở Kapilavatsu đến kính thăm, trong đó có một đạo sĩ già tên là Asita. Sau khi nhìn ngắm Bụt sơ sinh, Asita bật khóc. Vua cha kinh ngạc hỏi: "Thưa đạo sĩ, tại sao ông lại khóc? Con tôi sẽ có số phận không may chăng?" Ðạo sĩ trả lời: "Thưa Ðức Vua, không phải vậy. Việc ra đời của Thái tử Tất Ðạt Ða thật là mầu nhiệm. Con trai hoàng thượng sẽ thành một vị thầy quan trọng của thế giới. Nhưng tôi bây giờ đã già quá rồi, chắc không sống được đến ngày đó nữa. Ðó là lý do tại sao tôi khóc."

Trong Kinh Thánh cũng có một câu chuyện tương tự. Tám ngày sau khi sinh ra, Chúa Hài Ðồng được đưa đến đền thờ để làm lễ cắt bì. Khi một người tên Simeon nhìn thấy Chúa, Ông ta thấy là Ngài sẽ thay đổi cuộc sống nhân loại một cách lớn lao.

"Khi đến ngày làm lễ thánh tẩy theo luật của Mai Sen (Moses), người ta bế Ngài đến Giê Ru Sa Lem để trình Ngài lên Thượng Ðế ... và người ta theo luật của Thượng Ðế làm lễ hiến sinh hai bồ câu nhỏ. Lúc đó có một người ở Giê Ru Sa Lem tên là Simeon. Người đó là một người công chính và sùng tín, đi tìm đường cứu rỗi dân Israel, đưa Thánh Linh ở cùng người đó. Ðức Thánh Linh đã báo cho Simeon biết rằng ông ta sẽ được nhìn thấy Messiah (Ðấng Cứu Thế) trước khi chết. Theo hướng dẫn của Thánh Linh, Simeon đi tới đền thờ, và khi cha mẹ Chúa Hài Ðồng bế Chúa tới trao cho ông theo luật thánh, Simeon bế Chúa trong hai tay, và ca ngợi Thiên Chúa rằng: 'Lạy Chúa, nay Ngài có thể cho tôi tớ Ngài được yên nghỉ theo lời Ngài đã phán, vì nay tôi đã thấy được sự cứu rỗi mà Ngài đã chuẩn bị trước sự chứng kiến của mọi người, ánh sáng mạc khải cho dân ngoại và vinh quang cho dân Chúa, dân tộc Israel.' Cha và mẹ của hài nhi kinh ngạc khi nghe Simeon nói thế."

Mỗi khi tôi đọc chuyệm Asita và Simeon, tôi lại ước chi khi mỗi người chúng ta sinh ra lại có một vị hiền giả đến thăm viếng. Mỗi trẻ sơ sinh ra đời đều quan trọng, không kém gì việc đản sinh của Bụt. Chúng ta cũng là Bụt, một vị Bụt tương lai, và chúng ta tiếp tục ra đời trong mỗi giây phút. Chúng ta cũng đều là Con của Thiên Chúa và là con của cha mẹ ta. Chúng ta phải chăm sóc mỗi đứa trẻ mới ra đời.

Tiếp xúc với tổ tiên

Tôi không biết tôi là chính tôi hay tôi cũng là anh ruột tôi. Trước khi tôi ra đời, một em bé trai khác đã định sinh ra, nhưng mẹ tôi bị xẩy thai. Nếu người con trai đó còn sống, chắc tôi đã có một người anh. Hay tôi đã là anh tôi. Từ nhỏ tôi vẫn nghĩ ngợi về điều này.

Những bậc cha mẹ sắp có con nên cẩn trọng vì họ đang mang một hài nhi có thể trở thành một Ðức Bụt hay một Chúa Giêsu. Họ phải tỉnh táo biết những thứ gì họ đang ăn, uống, điều họ nghĩ, việc họ làm. Cách thức họ chăm sóc thân thể và cảm thọ của họ ảnh hưởng đến sự an lạc của đứa trẻ trong bụng mẹ. Cha mẹ chúng ta cho chúng ta được ra đời và hiện giờ vẫn tiếp tục ban sự sống cho chúng ta. Mỗi khi gặp khó khăn, tôi đều khấn cha mẹ tôi và lúc nào tôi cũng được phù hộ.

Các tổ tiên về tâm linh của chúng ta cũng ban cho chúng ta sự sống và cũng vẫn còn tiếp tục mãi. Ở nước tôi, chúng tôi thường nói một vị thầy đích thật có thể cho môn đệ sự sống. Nếu quý vị có đủ bản lãnh, quý vị sẽ tạo nên sự sống của những đứa con tinh thần, và qua sự tu tập và cuộc sống, quý vị sẽ tiếp tục ban sự sống cho nhiều người, cả sau khi đã qua đời. Chúng ta có thể nói các người con từ miệng Bụt ra đời vì Bụt đã ban cho họ các lời dạy, tức là Pháp. Có nhiều cách để mang Pháp tới cho cuộc sống tinh thần của một đứa trẻ sắp ra đời. Cách thông thường nhất là dùng lời nói. Mỗi ngày tôi vẫn tu tập để tiếp xúc với các tổ tiên huyết thống và các tổ tiên tâm linh của tôi. Mỗi khi tôi thấy mình yếu đuối, tôi lại kêu gọi họ phù trợ, và bao giờ các ngài cũng tới giúp.

Khổ và con đường dứt khổ

Ngay từ khi còn nhỏ, Tất Ðạt Ða và Guêsu đều nhận thấy đời nhiều nỗi khổ. Bụt đã thấy rất sớm nỗi khổ của mọi loài. Chúa Giêsu cũng phải nhìn thấy như vậy, vì các Ngài đều tìm đường giúp nhân loại dứt khổ đau. Chúng ta cũng phải tìm một lối sống giúp cho đời vơi khổ. Sự thật về khổ lúc nào cũng có mặt, ở chung quanh và ở trong ta, và chúng ta phải tìm đường giảm bớt nỗi khổ, biến khổ đau thành an lạc, hòa bình.

Chư tăng ni tu tập theo truyền thống của họ, đã tụng kinh, ngồi thiền, đi thiền hành, thọ trai trong yên lặng, và tu tập nhiều phương pháp khác để diệt khổ. Sống cuộc đời của một vị tăng hay ni, có thể ngồi im lặng quán chiếu về sự khổ và đường diệt khổ, là một điều quý báu hiếm có. Quý vị có thể ngồi quán chiếu sâu xa về thân và tâm của mình, như gà mẹ đang ấp trứng. Một ngày nào đó, trứng sẽ nở ra một gà con. Nếu quý vị không tôn quý những giờ thực tập, thì dù là tăng ni, quý vị cũng không cống hiến gì được cuộc đời.

Năm hai mươi chín tuổi Bụt xuất gia, tuổi tương đối còn trẻ, đến năm ba mươi lăm Ngài thành đạo. Chúc Giêsu cũng sống nhiều ngày một mình trong sa mạc. Chúng ta đều cần những giờ phút suy ngẫm và làm mới lại mình. Những người không phải tăng ni sẽ thấy khó kiếm được thì giờ thiền quán hay cầu nguyện, nhưng đó là một việc quan trọng phải làm. Trong những khóa tu, chúng ta tập sống ý thức về mỗi việc mình làm, rồi tiếp tục áp dụng điều đó trong cuộc sống hằng ngày. Thực hành như thế, chúng ta có thể quán chiếu sâu xa về bản chất của khổ và tìm ra đường thoát khổ. Ðó là bài giảng thứ nhất của Bụt tại Vườn Nai ở Sanarth: "Hảy quán chiếu sâu xa bản chất của khổ để tìm nguyên nhân gây ra khổ và con đường diệt khổ." Người đi tu hay người tại gia đều có thể thực tập điều đó.

Ta là con đường

Ðạo Bụt trong truyền thống Theravada (Nam Tông) nhấn mạnh vào các bài giảng của vị Bụt lịch sử, vị Bụt đã sống và đã qua đời. Sau nầy ý niệm về Bụt sinh động phát triển trong truyền thống Mahayana (Bắc Tông). Khi Bụt sắp nhập diệt, nhiều vị đệ tử buồn rầu vì sắp phải xa Ngài. Ngài đã trấn an họ rằng: "Nhục thân của ta sẽ không còn nữa, nhưng Pháp thân của ta vẫn luôn luôn ở bên các con. Hãy quy y Pháp để làm hòn đảo cho các con nương tựa." Lời Bụt dạy rất rõ ràng. Giáo Pháp của Ngài là hải đảo cho chúng ta nương tựa, là bó đuốc soi đường cho chúng ta. Khi Giáo Pháp còn tồn tại, thì chúng ta không cần phải lo buồn. Một vị sa môn lúc đó đang bệnh, ngỏ ý tiếc không thể đến gặp Bụt, Bụt nhắn với thầy đó rằng: "Nhục thân của Ta không quan trọng. Nếu thầy có Pháp thân với thầy, nếu thầy tin Pháp, thực tập Giáo Pháp, thì ta luôn luôn ở bên thầy." Chúa Giêsu cũng từng nói: "Khi có hai, hay ba người họp nhau trong tên ta, ta ở đó cùng họ."

Ta luôn luôn ở đó cùng người

Sau khi Bụt nhập diệt, người ta yêu và sùng kính Ngài quá nên ý niệm Pháp thân vốn bắt đầu là các giáo lý đã biến thành một vị Bụt huy hoàng, bất diệt, lúc nào cũng giảng Giáo Pháp. Trong truyền thống Bắc Tông, Bụt lúc nào cũng còn sống, vẫn tiếp tục giảng Giáo Pháp. Nếu quý vị chú ý lắng nghe, quý vị có thể nghe tiếng nói của Pháp từ một hòn sỏi, một lá cây, một đám mây bay. Ðức Bụt thường tồn đã trở thành Bụt sống, vị Bụt của niềm tin. Cũng giống như Chúa Ki Tô của đức tin, Chúa Ki Tô sống. Nhà thần học Paul Tillich mô tả Thiên Chúa như là nền tảng của hiện hữu. Người ta cũng có khi mô tả Bụt như vậy.

Thấy Ðạo là thấy ta

Gặp một vị minh sư cũng có giá trị như học ngài hàng thế kỷ, vì trong ngài chúng ta thấy tấm gương sống của sự giác ngộ. Làm sao chúng ta được gặp Bụt hay Chúa? Ðiều đó tùy thuộc chính ta. Nhiều người nhìn vào mắt Bụt hay Chúa mà không thấy. Có một thầy kia hối hả đi tìm gặp Bụt, vội quá đến nỗi dọc đường nhìn mà không thấy một người đàn bà đang đau khổ cần giúp đỡ. Khi vị đó tới tu viện gặp Bụt, ông ta cũng không nhìn thấy Bụt. Quý vị thấy Bụt hay không là do quý vị đang sống trong trạng thái nào.

Ta là trí tuệ, là từ bi

Bụt tỏa ra hào quang cũng như các nhân vật siêu phàm khác. Khi chúng ta gặp các nhân vật đó chúng ta cảm thấy bình yên, tình thương, thấy sức mạnh nơi họ và trong chúng ta. Có câu ngạn ngữ Trung Hoa rằng: "Thánh hiền ở đâu thì nước suối ở đó trong hơn, cây cối ở đó cũng xanh hơn." Câu đó mô tả không khí bao quanh bậc thánh nhân. Khi quý vị đến bên một hiền giả, quý vị cảm thấy bình an và sáng láng. Khi quý vị đến gần Chúa Giêsu và nhìn thẳng vào mắt Ngài - dù quý vị có thấy hay không - quý vị có nhiều hy vọng được cứu rỗi hơn là chỉ đọc lời nói của Ngài. Nhưng khi quý vị không thể đích thân gặp Chúa, thì còn những bài học của Chúa, đặc biệt là những bài học về cuộc đời của Ngài.

Thoát khỏi những khái niệm

Mỗi khi tôi đọc kinh điển, dù là kinh đạo Chúa hay đạo Bụt, tôi luôn luôn ghi nhớ rằng những điều các Ngài nói là nói cho một người hay một thính chúng nào đó, trong một hoàn cảnh nào đó. Tôi cố suy ngẫm sâu xa về khung cảnh của lời dạy để hiểu cho đúng hơn. Ðiều các Ngài nói có khi không quan trọng bằng cách nói. Khi chúng ta biết như vậy, chúng ta gần Chúa và Bụt hơn. Còn nếu như chúng ta phân tích kỹ lưỡng lời dạy của các Ngài mà không hiểu tương quan giừa người nói và người nghe thì có thể chúng ta đã hiểu lầm. Nhiều nhà thần học cũng có khi mắc lỗi nầy.

Khi đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy sự can đảm vô cùng của Chúa Giêsu khi Ngài cố thay đổi xã hội chung quanh. Khi đọc kinh Phật, chúng ta cũng thấy Bụt có một nhân cách rất mạnh. Xã hội Ấn Ðộ thời Bụt không nhiều bạo lực bằng xã hội trong đó Chúa Giêsu sinh ra, cho nên chúng ta có cảm tưởng các phản ứng của Bụt không quyết liệt bằng, nhưng điều đó là vì trong xã hội của Bụt khả dĩ có thể tìm ra phương cách khác. Hãy xem phản ứng của Bụt đối với sự sa đọa của các tu sĩ theo phái Vệ Ðà chẳng hạn, cũng rất quyết liệt. Thí dụ khái niệm về Tự Ngã (Atman), một trọng điểm của giáo lý Vệ Ðà, là một nguyên nhân của tình trạng bất công xã hội thời đó - như hệ thống đẳng cấp, cách đối xử bất nhẫn với những người vô đẳng cấp, và sự độc quyền về giáo điều của những người không chắc có giá trị tinh thần nhưng lại hưởng những cuộc sống sung túc nhất. Phản ứng lại, Bụt đã nhấn mạnh đến giáo lý Vô Ngã. Ngài nói: "Mọi sự vật không có tự tánh riêng biệt, độc lập. Nhìn vào tự tánh của một bông hoa, quý vị thấy đó là sự trống rỗng." Ðến khi các đồ đệ bắt đầu sùng bái giáo lý Vô Ngã, Ngài lại nói: "Thà rằng tin ở tự ngã của một bông hoa còn hơn là vướng mắc vào tính vô ngã của bông hoa."

Bụt không trình bày một học thuyết có tính cách tuyệt đối. Ngài dạy về vô ngã để đối trị với vấn đề của thời đại đó. Ðó là một đề tài thiền quán. Nhưng nhiều Phật tử về sau bị vướng mắc vào ý niệm vô ngã. Họ lầm phương tiện với cứu cánh, lầm cái bè qua sông với bờ sông bên kia, lầm ngón tay chỉ mặt trăng với mặt trăng. Có điều quan trọng hơn cả thuyết vô ngã. Ðó là sự giải thoát khỏi khái niệm về Ngã và về Vô Ngã. Một người theo đạo Bụt mà để bị vướng mắc vào một lý thuyết, dù là lý thuyết Phật giáo, là làm ngược lời Bụt dạy. Lời nói và khái niệm không quan trọng. Ðiều quan trọng là sự khai ngộ của chính chúng ta về bản chất của sự vật và cách thức chúngta đối trị với sự thật đó. Nếu Bụt sinh ra ở xã hội mà chúa Giêsu đã sinh ra, tôi nghĩ chắc Ngài cũng bị đóng đinh trên thập tự.

Thấy Ðạo, lên đường

Khi Chúa Giêsu nói: "Ta là con đường" Ngài muốn bảo nếu muốn gần Thiên Chúa chúng ta phải tu tập con đường của Ngài. Trong Tân Ước, ta thấy các người theo Thiên Chúa Giáo đầu tiên, như tả trong sách Tông Ðồ Mục Vụ, thường nói đến đức tin của họ như là "Con Ðường - Ðạo." Tôi nghe câu nói "Ta là Con Ðường" hay hơn câu "Ta biết Con Ðường." Ðây không phải là một con đường trải nhựa. Nhưng chúng ta phải phân biệt chữ "Ta" trong lời Chúa và chữ "Ta" mà người nghe vẫn nghĩ. Chúa nói "Ta" là nói về Ðời Sống, đời sống của Ngài, đó là Ðạo. Nếu quý vị không nhìn vào đời sống của Ngài, quý vị không thấy Ðạo của Ngài. Nếu quý vị chỉ ca ngợi một danh hiệu, dù là danh hiệu Chúa, đó chưa phải là tu học theo cuộc đời của Chúa. Nếu muốn sáng danh Chúa Giêsu chúng ta phải tập sống sâu xa, thương yêu và hành động bác ái. Ðạo, Con Ðường, chính là Chúa chứ không phải là một vài ý Chúa nói ra. Giáo lý đích thực có tính động. Ðó không phải là lời nói mà thôi nhưng là đời sống thật. Nhiều người không có đạo lẫn đời sống mà vẫn bắt ép mọi người theo cái mà họ tưởng là đạo. Nhưng đó chỉ là lời nói mà không dính dấp gì đến đời sống thật hay con đường thật.

Khi chúng ta hiểu và thực hành sâu xa cuộc đời và giáo pháp của Bụt, cuộc đời và tín lý của Chúa Giêsu, chúng ta bước được vào trong cánh cửa của căn nhà Bụt sống và Chúa sống, và đời sống hằng cửu sẽ đến với ta.

Thân ta là mình Chúa

Khi một vị mục sư nói tôi là người không biết ơn (vì không tạ ơn Chúa khi ăn cơm), ông đang nói một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ người theo đạo Bụt. Ông nghĩ tình thương yêu chỉ có thể biểu tượng vào một người. Vì vậy, sự Phục Sinh là một tín lý rất quan trọng trong Ki Tô Giáo. Nếu Giêsu chết đi rồi không phục sinh, ai sẽ mang tình yêu thương vĩnh cữu của Ngài tới cho chúng ta? Nhưng Thượng Ðế có cần phải biểu hiện thành một người không? Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo luôn luôn dùng hình ảnh của một người.

Trong đạo Bụt, chúng ta cũng hay diễn tả các điều thệ nguyện của mình bằng hình ảnh của một người, như sự tỉnh thức (Bụt Thích Ca), trí tuệ (Bồ tát Văn Thù Sư Lợi), và tình yêu (Bụt Di Lặc), nhưng ngay cả khi không có Thích Ca Mâu Ni, Văn Thù Sư Lợi, Di Lặc, chúng ta vẫn tiếp xúc được với tỉnh thức, trí tuệ và yêu thương. Ðệ tử Bụt là sự tiếp nối của Bụt. Chúng ta có thể biểu hiện tỉnh thức, trí tuệ và thương yêu qua các nhân vật thời đại của mình, ngay cả qua chính mình. Chúng ta không cần tin Bụt hay Bồ tát sẽ sống lại bằng sự thực hành tỉnh thức, trí tuệ và thương yêu trong chúng ta.

Chúa Ki Tô sống là Ðức Ki Tô của Tình Yêu, mỗi lúc đều tạo dựng nên tình yêu. Khi giáo hội biểu hiện sự hiểu biết, bao dung, và từ bi, Chúa Giêsu đang ở đó. Những tín đồ Thiên Chúa Giáo cần giúp thể hiện Chúa Giêsu trong đời sống của họ, cho những người chung quanh thấy rằng ta có thể đạt tới tình thương, sự hiểu biết và bao dung. Ðiều đó không thể làm đầy đủ qua sách vở và bài giảng. Phải thể hiện trong đời sống. Trong đạo Bụt cũng vậy, đức Bụt sống Ngài dạy chúng ta từ bi chỉ có thể thể hiện bằng cách chúng ta sống.

Nhờ công phu hành trì của nhiều thế hệ người theo đạo Bụt và đạo Chúa, sức mạnh từ Bụt và từ Chúa đã được truyền tới đời chúng ta. Nhờ thế chúng ta có thể tiếp xúc với Bụt sống và Chúa sống. Chúng ta biết ta là biến thân của thân Bụt và một phần của thân huyền nhiệm của Chúa. Chúng ta có cơ hội tuyệt vời làm cho Bụt và Chúa tiếp tục sống mãi. Nhờ thân thể và đời sống của chúng ta mà ta có thể tu tập. Nếu quý vị ghét thân thể của quý vị, nghĩ rằng đó là nguồn gốc của buồn phiền, nó chỉ chứa đựng các hạt giống của giận dữ, thù hận và tham lam, quý vị không hiểu rằng thân thể của quý vị cũng là thân Bụt, thân thể quý vị cũng là một phần thân Chúa.

Hãy vui hưởng sự sống

Thở và biết rằng mình sống thật là điều tuyệt vời. Vì ta còn sống, nên ta còn bao nhiêu chuyện có thể làm. Tăng thân, cộng đồng của những người tu tập có thể tiếp tục. Giáo hội có thể tiếp tục. Xin đừng phí một giây phút nào. Mỗi giây phút đều là dịp để thở sự sống vào Bụt, Pháp, và Tăng. Mỗi giây phút đều cho ta cơ hội để thể hiện Cha, Con, và Thánh Thần.

"Có một người sinh ra trên trái đất để mang lại bình an hạnh phúc cho muôn loài. Vị đó là ai vậy?" kinh Anguttara Nikaya hỏi câu đó. Ðối với người Phật tử, vị đó là Bụt. Ðối với tín hữu Thiên Chúa Giáo, vị đó là Chúa Giêsu. Bằng chính đời sống hằng ngày của quý vị, quý vị có thể giúp các Ngài tiếp tục sống. Quý vị chỉ cần đi trong tỉnh thức, bước từng bước an hòa và hạnh phúc trên hành tinh của chúng ta. Hãy thở thật sâu và vui hưởng hơi thở của quý vị. Hãy ý thức về bầu trời xanh và tiếng chim hót ngọt ngào. Hãy vui hưởng sự sống, quý vị sẽ giúp Ðức Chúa Ki Tô Sống và Ðức Bụt Sống tiếp tục lâu dài, mãi mãi. Thích Nhất Hạnh (1995)

TS NHẤT HẠNH - TỨ DIỆU ĐẾ

TỨ DIỆU ĐẾ
Pháp thoại của Sư ông Làng Mai
ngày 21.05.2008 tại tổ đình Từ Hiếu - Huế

Kính thưa đại chúng,

Hôm nay là ngày 21 tháng 5 năm 2008. Chúng ta đang ở tại thiền đường Trăng Rằm của tổ đình Từ Hiếu.

Nếu có người hỏi, thầy biết Tứ Diệu Đế chưa, sư cô biết Tứ Diệu Đế chưa, đạo hữu biết Tứ Diệu Đế chưa, thì mình trả lời thế nào cho đúng? Từ hồi mới vô chùa, mình đã được học về Khổ, Tập, Diệt, Đạo và mình nghĩ rằng, mình đã biết rồi. Nhưng cái hiểu, cái biết của mình về Tứ Diệu Đế có thể càng ngày càng sâu hơn và cái hiểu cách đây ba bốn chục năm có thể còn ngây thơ, cạn cợt.

Nếu có ai hỏi, thầy Nhất Hạnh đã hiểu hết Tứ Diệu Đế chưa? - tôi sẽ trả lời, chưa! Tôi hiểu đã khá, nhưng chưa hiểu hết. Sang năm tôi có thể hiểu về Tứ Diệu Đế sâu hơn năm này. Cứ như vậy cái hiểu của mình càng ngày càng sâu hơn, cao hơn nếu mình có tu, có học, nếu mình không nghĩ rằng mình đã hiểu rồi. Sự thật là mình chưa hiểu hoàn toàn, mình chỉ hiểu một ít thôi. Cái này cũng đúng với Bát Chánh đạo, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phận, Bát Thánh đạo phần.

Nếu nói tôi đã hiểu rồi thì không đúng, dù đó là vị Pháp sư đã từng tu học và giảng dạy năm, bảy năm. Nhờ sự tu học mình có thể hiểu sâu thêm những giáo lý mà ban đầu mình tưởng đơn sơ dễ hiểu như Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng. Thầy Nhất Hạnh có cái hiểu khá sâu về Tam bảo, nhưng thầy Nhất Hạnh chưa hiểu hết được và sang năm Thầy sẽ có cái hiểu sâu hơn về Tam bảo. Điều đó là sự thật. Cho nên nghĩ rằng mình đã hiểu thế nào là Tam bảo, Tứ Diệu Đế rồi là một ảo tưởng, một sự sai lầm.

Mình hiểu chưa nhiều lắm đâu. Có thể mình mới chỉ có vài ba khái niệm sơ lược về giáo lý đó về Tam bảo, Tứ Diệu Đế, Bát Chánh đạo.

Bốn sự thật mầu nhiệm.

Ngày xưa có Tổ dịch Tứ Diệu Đế là Tứ Thánh đế. Thánh có nghĩa là linh thiêng. Tứ Thánh Đế là bốn sự thật linh thiêng. Tứ Diệu Đế là bốn sự thật mầu nhiệm. Đế là sự thật. Nhìn vào chữ đế, chữ Hán, mình thấy người Hoa có quan niệm về sự thật. Một bên là chữ ngôn, một bên là chữ đế. Lời nói của ông Vua. Lời của ông Vua phải là sự thật, chưa chắc. Lời nói của ông vua có thể như đóng đinh nhưng chưa chắc đã là sự thật. Sự thật là đối tượng của sự tìm tòi. Nhà tu cũng như nhà khoa học luôn luôn có ý hướng muốn đào sâu, muốn tìm tòi. Nếu mình nghĩ rằng mình hiểu rồi, biết hết rồi thì sự tìm tòi đó chấm dứt. Nhà khoa học cũng vậy, nhà tu cũng vậy. Nhà khoa học sử dụng những máy móc tinh xảo, nhà tu sử dụng thân khẩu ý, niệm, định, tuệ để tìm tòi. Nếu mình tìm tòi cho đàng hoàng, đi sâu vào thì mình sẽ phát minh ra sự thật và càng tìm tòi thì sự thật càng được phát minh sâu hơn, lớn hơn, rộng hơn. Tiếng Phạn là Arya. Arya có nghĩa là cao quý. Sự thật này là sự thật rất cao quý. Cho nên người Tây phương dịch là noble truth, có thể dịch là holy truth, hoặc Wonderful Truth. Tây phương bây giờ dịch noble từ chữ Arya. Sự thật cao quý, sự thật thánh thiện, sự thật mầu nhiệm.



Sự thật thứ nhất là Dukha - Khổ.

Tây phương dùng chữ illbeing để dịch chữ Dukha. Illbeing là khó ở, có bệnh tật, có cái gì không suông chảy, bế tắc. Illbeing là đối lại với wellbeing. Wellbeing là sự sảng khoái, sự thông suốt, an vui, không có vấn đề. Chữ khổ ở đây có nghĩa là không thoải mái, không hạnh phúc, không thông thoáng, bị bế tắc, khổ đau. Khi mình học thì thầy có thể dạy rằng, sự thật thứ nhất, Khổ đế, có nghĩa đời là khổ.

Nói đời là khổ thì cũng đúng nhưng chỉ đúng phần nào thôi và bắt buộc mình tin rằng đời chỉ có khổ. Đời chỉ là khổ thôi chứ không là cái gì khác, đó không phải là sự thật toàn vẹn. Giảng sự thật thứ nhất đời là khổ, life is illbeing là chỉ đúng phân nữa sự thật vì đời cũng có thể rất vui, có thể thoải mái, thông thoáng, nhẹ nhàng, không phải chỉ bế tắc sầu khổ mà thôi. Cho nên sự thật thứ nhất không phải đời là khổ.

Sự thật thứ nhất là khổ đau đang có mặt
và hạnh phúc cũng đang có mặt

Khổ đau đang có mặt là một sự thật. Nhưng sự thật đó không trái chống lại sự thật khác, nó nằm phía sau lưng là hạnh phúc cũng đang có mặt, cũng có thể đang có mặt, nhưng chưa có cơ hội biểu hiện ra mà thôi. Như khi bị mây che thì không thấy mặt trăng nhưng nói không có trăng, chỉ có mây, thì không đúng. Sự thật thứ nhất xác nhận trong giây phút hiện tại có những khổ đau. Nhưng không có nghĩa đời chỉ là khổ đau.

Đời chỉ khổ đau là lối giáo dục nhồi sọ. Đời có thể có hạnh phúc, có thanh thoát. Mình không muốn giáo dục nhồi sọ. Đời là khổ là lối giáo dục nhồi sọ. Có những đau khổ trong cuộc đời, nhận diện những đau khổ đó là có thật. Đó là sự thật thứ nhất. Tại vì khi mình đi tới sự thật thứ ba, khổ diệt -Diệt đế- là sự vắng mặt của khổ đau. Sự thật thứ nhất là sự có mặt của khổ đau. Sự thật thứ ba là sự vắng mặt của khổ đau. Vắng mặt khổ đau đồng nghĩa là sự có mặt của hạnh phúc, phải vậy không? Cũng như vắng mặt bóng tối là sự có mặt của ánh sáng. Nếu khộng có bóng tối thì cái nào thay thế bóng tối nếu không phải là ánh sáng? Vì vậy cho nên sự thật thứ ba là hạnh phúc có thể có được. Sự thật thứ nhất xác định sự có mặt của khổ đau. Sự thật thứ ba xác định sự có mặt có thể có của hạnh phúc. Hai sự thật đó đối đãi với nhau. Chấp nhận sự thật thứ nhất là phải chấp nhận sự thật thứ ba. Chấp nhận sự thật thứ ba thì phải chấp nhận sự thật thứ nhất. Cũng như nói có bùn thì mới có sen. Không có bùn thì không có sen. Vì vậy sự thật thứ nhất là đối với sự thật thứ ba mà nói. Không thể nào hiểu được sự thật thứ ba nếu không hiểu được sự thật thứ nhất. Thành ra cái thấy đầu tiên của mình về sự thật thứ nhất là xác nhận sự có mặt của khổ đau và sự thật thứ ba là xác nhận khổ đau có thể chấm dứt để hạnh phúc bắt đầu có mặt. Đó là hai đế, thứ nhất và thứ ba. Như vậy thì không bi quan, yếm thế, không có giáo dục nhồi sọ. Nó rất khoa học. Ngày xưa cũng như bây giờ chúng ta muốn miêu tả sự thật thứ nhất và các sự thật khác. Ngày xưa chúng ta miêu tả sự thật theo kiểu ngày xưa, rất là đơn sơ. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ. Đó là bốn cái khổ đau.

Ngày xưa định nghĩa khổ thì có sanh, có già, có bệnh, có chết. Bây giờ chúng ta không hẳn phải định nghĩa giống như ngày xưa. Tại vì sanh ra một đứa con có thể mang lại niềm vui cho rất nhiều gia đình. Mình có thể ăn mừng khi có những đứa con sinh ra, vì thế sinh chưa hẳn đã là khổ. Có thể trong lúc sinh có những khó khăn của bà mẹ, có tiếng khóc oa oa của đứa con, có những giây phút khó khăn nhưng có cái gì không khó khăn đâu? Được một mảnh bằng cũng khó khăn lắm chứ, có một sở làm cũng khó khăn lắm chứ, phải không? Vì thế sanh có thể có chút khó khăn nhưng sanh có thể là điều rất vui, nếu không vì sao mình hát „happy birthday to you“.

Còn lão là già, hai chân đi yếu, nhai cơm trệu trạo không nhỏ. Đi còng lưng lại, hai bên hai người đỡ, khổ thật. Không được như tuổi trẻ, muốn nhảy thì nhảy, muốn chạy thì chạy. Nhưng tuổi già cũng có hạnh phúc của tuổi già. Đây là kinh nghiệm trực tiếp. Tuổi già thanh thản hơn, không vội vàng, hối hả, không bồn chồn như tuổi trẻ. Thử tưởng tượng mình như dòng suối cao chảy xuống thì mình nhảy nhót, ca hót, chạy rất nhanh, càng nhanh càng tốt. Đó là tuổi trẻ. Dòng suối đi xuống đồng bằng thì chảy chậm lại khi dòng suối trở thành dòng sông thì êm ả hơn, lắng dịu hơn. Dòng sông trôi rất bình thản, nhẹ khỏe hơn nhiều. Khi có an thì có lạc nhiều hơn. Khi lớn tuổi mình đằm lại, mình có nhiều thì giờ hơn, mình sống đàng hoàng hơn. Già có thể nhẹ nhàng, có thể ung dung, có thể sâu sắc hơn nên già chưa hẳn là khổ.

Bệnh cố nhiên là khổ rồi. Nhưng nếu không có bệnh thì mình không có cơ hội để thấy được, không bệnh là hạnh phúc. Ví dụ mình đau răng. Khi đau răng vào khoảng ba giờ khuya, thức chờ đến tám giờ sáng phòng mạch của nha sĩ mới mở cửa. lúc đó mình mới giác ngộ, không đau răng là hạnh phúc quá chừng. Khổ đau nó dạy cho mình biết mình đang có hạnh phúc. Mình có thể đánh mất hạnh phúc đó bất cứ lúc nào. Anh đang khổ nhưng kỳ thực anh đang có rất nhiều điều kiện hạnh phúc. Anh chỉ cần trở về giây phút hiện tại, khám phá ra những điều kiện hạnh phúc đó là anh hạnh phúc liền. Khổ đau cũng là một cần thiết cho cuộc đời. Nếu không có khổ thì con người không có thể lớn lên được. Chính khổ đau làm cho mình thành người. Nơi nào không có khổ đau, nơi đó con người không lớn lên được, không biết thương, không biết hiểu, hai điều làm cho người ta hạnh phúc. Nhất là hiểu biết và thương yêu, hai cái đó chỉ có thể un đúc được khi có khổ đau. Hiểu được cái khổ thì mình mới chấp nhận thương yêu. Vì vậy cho nên cái khổ rất là cần. Mỗi người cần có một ít khổ đau, vấn đề là liều lượng của khổ đau. Liều lượng đúng thì rất là hay, liều lượng sai thì không được, như khi mình nấu canh, cần bỏ bao nhiêu muối, muối nhiều thì không ngon. Mỗi người trong chúng ta phải có cái liều khổ đau nào đó để chúng ta có thể lớn lên được. Con cháu cũng vậy, đừng sợ con cháu khổ, chỉ sợ con cháu không học hỏi được từ khổ đau mà thôi. Chính khổ đau làm cho mình trưởng thành, làm cho mình thành người lớn. Khổ đau đóng vai trò rất lớn trong việc chế tác từ bi, hiểu biết và thương yêu. Người phật tử không sợ khổ. Người phật tử nhìn thẳng vào khổ đau, học hỏi từ khổ đau và lớn lên nhờ khổ đau. Thái độ trốn chạy không phải là thái độ của đạo Phật. Vì vậy cho nên người ta hỏi, tại sao khổ là một sự thật cao quý? Khổ có gì cao quý trong cái khổ đau đâu mà nói khổ đế là sự thật cao quý?

Bây giờ bắt đầu hiểu, nói Khổ đế là sự thật cao quý vì nhờ khổ đế mà mình có thể học hiểu, học thương và giác ngộ được. Cũng như không có bùn thì làm sao mà có sen. Nếu không có khổ đau thì không có hiểu và thương. Vì vậy xác định khổ đế là một sự thật cao quý, một sự thật mầu nhiệm, một sự thật thánh thiện. Nếu mình chỉ là nạn nhân của khổ đau, không học hỏi được từ khổ đau, sợ hãi trốn tránh khổ đau, thì cái khổ đó không còn cao quý nữa. Khuynh hướng con người là chạy trốn khổ đau trong khi đức Thế tôn dạy đừng chạy trốn khổ đau, hãy can đảm nhìn thẳng, đối diện với khổ đau để học hỏi và để lớn lên. Cho nên sự thật thứ nhất là một sự thật cao quý, là một sự thật thánh thiện, là một sự thật mầu nhiệm, một diệu đế, thánh đế.

Chết cũng vậy. Chết không hẳn chỉ là khổ. Với một người đã sống lâu, đã mệt mỏi, đã có những khó khăn trong cơ thể thì chết là một cái rất tốt cho họ để họ có thể tiếp tục dưới dạng khác trẻ hơn, tươi hơn, mát hơn. Tưởng tượng là mình bị lên án không bao giờ được chết. Người ta cho mình bản án, anh không bao giờ được chết hết. Anh phải sống từ đời này sang đời khác, không biết quý vị có chịu nỗi hay không? Có những lúc mình quá mệt mỏi, có quá nhiều đau nhức thì chết là cái giải thoát để mình có thể hóa sinh ra kiếp mới lành hơn, mạnh hơn. Vì vậy chưa hẳn chết đã là cái hoàn toàn xấu. Nếu không có cái chết thì làm gì có cái sống! Cái chết và cái sống tương tức với nhau. Ví dụ mình gieo hạt bắp xuống đất. Nếu hạt bắp không chết để nhường chỗ cho cây bắp thì làm gì có tương lai? Cho nên chết là điều kiện rất cần thiết cho cái sống. Mình phải chết cho mình được sống, cho con cháu mình được sống. Mình làm phân bón cho chính mình, cho con cháu mình. Mình nuôi con cháu mình và hạt bắp dự trữ những chất dinh dưỡng của một bà mẹ. Khi cây bắp sinh ra rồi thì hạt bắp dùng hết những nhựa sống trong hạt bắp đó để nuôi cây bắp lớn lên và để cây bắp đâm rễ. Sau khi lấy hết những chất nhựa trong hạt bắp rồi thì nó bắt đầu lấy chất dinh dưỡng trong lòng đất. Chết là một điều rất mầu nhiệm. Mình đang chết từ từ để nuôi dưỡng con cháu mình, tức mình nuôi dưỡng chính mình trong tương lai. Tại vì hạt bắp với cây bắp không phải là hai thực thể riêng biệt. Cây bắp là sự nối tiếp của hạt bắp. Chừng nào cây bắp còn là hạt bắp còn. Cái chết đó không hẳn là chết. Chết là điều kiện thiết yếu cho sự sống được tiếp tục. Thấy được như vậy thì không sợ chết nữa và mình có thể mỉm cười với cái chết.

Ngày xưa miêu tả sinh,lão, bệnh, tử toàn là tiêu cực một trăm phần trăm. Tu là để thoát khỏi bốn cái đó. Không sinh, không già, không bệnh, không chết. Sinh, lão, bệnh, tử: khổ.

Cầu bất đắc: khổ. Những gì mình ước mơ, mong đợi, thèm khát mà không được, ví như mãnh bằng hay chức vụ, hay sự nghiệp giàu sang… những cái đó, mong ước mà không có là khổ! Cầu bất đắc, khổ. Đây là sự thật. Nhưng khổ này không phải là một thực tại khách quan. Tại do mình cầu cho nên khổ. Không cầu thì có khổ đâu? Nếu mình không muốn mãnh bằng thì làm gì có khổ? Vì mình muốn có bằng nên mới khổ. Đôi khi có bằng còn khổ hơn nữa. Có mảnh bằng, vui vui được vài bữa, rồi thấy mảnh bằng này chẳng có giá trị gì, lại muốn cái khác. Cầu không được thì khổ nhưng cầu được cũng khổ như thường. Sự thật này cũng không đúng lắm. Cầu cái đó, được rồi thì mình cầu cái khác. Thành ra cầu đắc cũng khổ chứ không phải cầu bất đắc mới khổ. Vấn đề ở chỗ cầu hay không cầu mà thôi.

Những cái mà người xưa dùng để miêu tả sự thật thứ nhất, mình phải nhìn cho sâu mới hiểu, đó là cách hiểu của người xưa. Không hẳn bây giờ mình phải theo cái hiểu đó. Phật học là một khoa học. Mình là một học giả, mình là một nhà khoa học, mình phải khám phá càng ngày càng sâu thêm chứ tại sao cứ ngồi đó mà lập đi lập lại những điều người xưa đã nói. Tổ Lâm Tế đã nói như vậy đó. Đừng ê a lập lại những giáo điều của người xưa. Mình đâu phải là cái máy record, mình đâu phải là cái máy cassette.

Ái biệt ly, khổ. Thương nhau mà không được ở gần nhau, khổ. Đây là sự thật nhưng chỉ là một nữa của sự thật thôi. Ban đầu bị chúng[1] gởi đi xóm khác, cũng hơi buồn. Ai ngờ đi xóm khác những vướng mắc kia tan đi, mình khỏe. Mình hạnh phúc hơn nhiều. Mình có những dây mơ rễ má, vướng mắc cái này, vướng mắc cái kia, tưởng rằng không gần nhau thì khổ lắm. Ai dè qua xóm kia ở một năm rồi, không muốn về nữa. Thành ra ái biệt ly chưa hẳn là khổ. Nó có thể đem lại hạnh phúc. Có những người đi qua cầu đó rồi. Biết rằng cái cầu đó mình nghĩ không đi qua cũng được. Bây giờ mình đã thoát khỏi ra rồi, mình nghĩ, trời đất ơi, hồi đó mình khổ biết bao nhiêu. Bây giờ mình thoát ra khỏi, mình nhẹ nhàng biết bao nhiêu. Biệt ly, xa cách đôi khi làm cho mình thương nhau hơn, quý nhau hơn. Phải vậy không thầy, võ sư? Biệt ly giúp mình trân quý sự có mặt của nhau hơn. Ở gần nhau, coi thường nhau. Khi người kia đi xa rồi mình thấy, trời đất ơi, người đó dễ thương quá! Biệt ly chưa hẳn là cái hoàn toàn xấu. Nó cũng có cái hay. Mình phải thấy được. Người xưa nói, có sự thật, nhưng không phải là sự thật tuyệt đối, sự thật trăm phần trăm. Mình phải nghe, phải hiểu bằng cái thông minh của mình, bằng sự nhận thức độc lập của mình.

Óan tằng hội, khổ: Những người mình ghét mà cứ ở với họ thì khổ. Mình chỉ có hạnh phúc được khi tách rời, đi xóm khác, mới được hạnh phúc.

Ngoài đời có những cặp vợ chồng khi mới yêu nhau, mới cưới nhau thì họ nói, không có em làm sao anh sống sót được, chắc anh chết quá. Nếu không có em thì đời anh không nghĩa lý gì. Không có anh cũng vậy, đời em chẳng còn ý nghĩa gì cả, thà em chết, không bao giờ cưới người khác. Nhưng nếu không tu tập thì chừng ba bốn năm sau, họ có cảm tưởng khác. Người kia là gánh nặng cho mình, mỗi khi thấy người kia thì mình không hạnh phúc nữa. Ban đầu thì nhìn nhau cũng đủ no, bây giờ nhìn mặt nhau không được nữa. Nói chuyện với nhau không được nữa vì gây nội kết cho nhau quá nhiều. Bắt buộc phải sống với người này đến trăm năm, chắc mình chết quá. Tình yêu ngày xưa đẹp như vậy mà bây giờ trở thành ngục tù chung thân. Oán tằng hội khổ. Mình phải chịu đựng ổng suốt đời mình hay sao? Mình phải chịu đựng bà cho hết đời hay sao? Cái đó nó do tâm. Nếu mình có Phật pháp, mình có thể chuyển hóa, thay đổi được. Óan tằng hội khổ không phải là sự thật khách quan. Có Phật pháp mình thay đổi được hết. Ghét nhau mà mỗi ngày nhìn thấy mặt nhau, chán quá. Nhưng có mặt của từ bi thêm vào, nó khác hẳn ngay lập tức.

Ngũ ấm xí thạnh, khổ: Năm yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức nếu không điều hòa cũng tạo ra khổ. Cái này quá mạnh. Xí là cháy lên, trở thành bao trùm những cái khác, làm mất thăng bằng. Một trong những yếu tố của năm uẩn như giận buồn, lo hay năng lượng trong thân thể như năng lượng tình dục chẳng hạn, nếu nó lên nhiều quá thì nó làm mình khổ. Năng lượng của sự lo lắng, tăng lên cũng làm mình khổ. Trong Quy Sơn Cảnh Sách mà mình đọc sáng nay có câu: Tuy tứ đại phù trì thượng tương vi bối, hình hài này tuy được bốn yếu tố đất nước, không khí và sức nóng nâng đỡ nhưng bốn yếu tố đó có khi chống chọi nhau. Nhiều khi hỏa bốc lên nhiều thì mình cũng khổ, nước nhiều quá cũng khổ, gió nhiều cũng khổ vì vậy sự thăng bằng phải khéo léo để giữ gìn. Nếu không có sự thăng bằng đó trong năm uẩn và trong tứ đại thì cũng khổ. Đây là sự thật cần khám phá, nhưng nó quá vắn tắt. Sau này các thầy, các sư cô phải khai thác ngũ ấm xí thạnh khổ này cho rõ ràng, khoa học hơn.

Mình là người học Phật của thế kỷ hai mươi mốt, mình là nhà khoa học trong lãnh vực thực tập đạo Phật trong thế kỷ 21, mình phải có sự trình bày khác hơn về sự thật thứ nhất. Nó thích hợp hơn, tại vì trong chúng ta, ai cũng từng khổ. Dù chúng ta còn trẻ có thể chúng ta đã khổ rồi. Có khi mới hai tuổi, ba tuổi, đã bắt đầu khổ rồi. Khổ đó là những kinh nghiệm trực tiếp, mình khổ cái gì thì mình nói ra cái đó. Những khổ đau có thiệt chứ không hẳn là những điều người xưa đã nói. Đó là những công thức của người xưa để giảng bày cái khổ. Không hẳn là mình phải theo nhưng mình phải biết. Phật pháp phải khế cơ, tức là nó phải đáp ứng được những nhu yếu đang có thực của con người.

Sự căng thẳng ở trong thân và tâm.

Cái khổ đầu tiên mà mình phải nói tới là sự căng thẳng ở trong thân và trong tâm của mình. Đó là một sự thật không phải chỉ riêng cho cá nhân mình mà cho cả xã hội. Đó là sự dồn nén, sự căng thẳng trong thân và trong tâm, stress. Quán chiếu thì mình thấy mình đang sống trong thế kỷ, trong môi trường đang tạo ra sự căng thẳng trong thân và trong tâm. Nhà chính trị, nhà doanh thương, nhà giáo dục, tất cả chúng ta không có thì giờ để sống. Chúng ta bận rộn quá nhiều, chúng ta lo toan công việc. Ngay các thầy trụ trì cũng vậy. Các sư cô, sư bà cũng vậy, quá nhiều công việc. Phải lo cái này, phải lo cái kia, phải có những cái hẹn chót, deadline, vì vậy, mỗi ngày mình dồn chứa sự căng thẳng trong thân của mình. Mình gồng nên mình căng thẳng và vì những căng thẳng đó, những stress đó nên mình không thoải mái. Đó là cái khổ đầu tiên. Mai mốt mình sẽ có một khóa cho những nhà doanh thương ở Hội An, mình sẽ nói rằng, tôi biết các ông có rất nhiều đòi hỏi, rất nhiều căng thẳng ở trong cơ thể. Các ông có cơ hội để sống buông thư thoải mái ở trong chùa. Quý vị có những giờ ngồi thiền, buông thư hết "nothing to do, no where to go" không cần đi đâu hết, không cần làm gì. Mình có thể sử dụng điều hòa hơi thở, buông bỏ những căng thẳng trong thân rồi trong tâm ra. Ngồi thiền như vậy rất là trị liệu. Mình có thể chia sẻ cái đó với các nhà chính trị, các nhà doanh thương, những người phải đi làm tám hay mười giờ một ngày ở ngoài đời. Tất cả chúng ta đều có sự căng thẳng trong thân. Phương pháp của Bụt dạy là lấy đi những căng thẳng đó như trong kinh An Ban Thủ Ý -quán niệm hơi thở- thì hơi thở thứ ba là lấy đi những căng thẳng đó.

Thở vào tôi có ý thức về toàn thân tôi. Khi thở vào mình có ý thức nương theo hơi thở, mình nhận diện sự có mặt của cơ thể mình với sự dồn chứa, với những căng thẳng trong đó. Khi mình thở ra, mình thở nhẹ nhàng, buông hết những căng thẳng đó trong cơ thể. Đó là bài tập thứ ba và thứ tư trong kinh An Bang Thủ Ý. Ngay từ hồi đầu, đạo Bụt đã có những pháp môn để chữa trị những sự căng thẳng của con người. Bài tập thứ ba và thứ tư trong kinh là để nhận diện những căng thẳng trong cơ thể và để buông bỏ những căng thẳng trong cơ thể.

Nhận diện cơ thể, trong kinh gọi là thân hành giác. Chữ giác này tức là niệm, ý thức được, nhận diện được cái hình hài của mình. Những cảm thọ, cảm xúc của mình gọi là tâm hành, còn đây là thân hành. Trở về tôi nhận diện được hình hài của tôi, thân hành giác. Thở vào, thở ra, tôi buông bỏ những căng thẳng trong toàn thân tôi thì gọi là thân hành tức. Chữ tức trong nguyên văn có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là hơi thở, ở trong kinh An Bang Thủ Ý còn có nghĩa là làm lắng dịu lại.

Vậy thì mình phải diễn tả những cái khổ đang có thật trong con người và những cái khổ mình trông thấy chung quanh mình. Trước hết mình thấy có sự căng thẳng, có sự bất an. Không có an trong thân. Thân mình bất an. Có những đau nhức, có những dồn nén, có những căng thẳng trong con người mình và có những đau nhức, có những căng thẳng, có những dồn nén trong tâm mình, bất an. Bất an tức là không có hạnh phúc. Trong chúng ta người nào lại không có những giây phút bất an? Chúng ta ngồi không yên. Chúng ta đứng không yên. Chúng ta nằm cũng không yên. Trăn trở khi nằm, cuống quýt khi đi, ngồi như ngồi trên đống lửa, cái đó là hiện tượng bất an. Đây là cái khổ có thật trong mỗi con người của chúng ta và trong xã hội nói chung. Trong khi đó, đức Thế Tôn ngồi rất là an. Ngài đi rất là an. Nụ cười chứng tỏ ngài có cái an trong đó.

Bất an bao gồm những lo lắng, sợ hãi, tuyệt vọng, giận hờn, bạo động. Bạo động là năng lượng thúc đẩy mình muốn la, muốn hét, muốn đập phá, trừng phạt những người thương của mình, trừng phạt người hôn phối của mình. trừng phạt con của mình và đôi khi trừng phạt ngay chính mình. Nó có sự bạo động trong mỗi chúng ta. Trong ta có những bức xúc, lo lắng, sợ hãi mà không xử lý được. Mình không biết cách xử lý. Mình không biết cách chuyển hóa cho nên mình dồn nén và trở thành trái bom của những tâm hành. Thân hành là hình hài của mình. Tâm hành là những cái đó.

Khi đi sang lãnh vực thọ, thì mình thấy có những sợ hãi, lo lắng, tuyệt vọng, giận hờn, bạo động. Đó là những tâm hành, những cảm xúc. Tuyệt vọng là một cảm xúc, sợ hãi là một cảm xúc. Người tu thì phải biết cách nhận diện và xử lý những cái đó. Vì vậy trong kinh quán niệm hơi thở, có bài tập thứ bảy và thứ tám. Bài tập thứ bảy là thở vào, theo hơi thở, trở về với tâm (trước đó là theo hơi thở trở về với thân, giờ là theo hơi thở trở về với tâm) để nhận diện những cảm xúc đang có mặt. Cảm xúc đó có thể là những lo lắng sợ hãi, ganh tị… gọi là tâm hành giác. Ý thức được những tâm hành đang có trong mình. Tâm hành đó là sự sợ hãi, sự lo sợ. Thở vào, tôi biết rằng trong tôi đang có sự sợ hãi. Thở vào tôi biết rằng trong tâm tôi đang có sự lo lắng. Đó là sự nhận diện. Giác là nhận diện. Văn này rất là xưa -văn A hàm, tạp A hàm- rất là xưa, thế kỷ thứ ba, thứ tư Tây lịch. Phải hiểu đúng ý nghĩa của văn xưa.

Tâm hành tiếng Phạn là Cittasamskara. Samskara là hành. Citta là tâm, những hiện tượng về tâm như sự sợ hãi, sự lo lắng.

Thở vào tôi ý thức được tâm hành đang có mặt trong tôi. Thở ra tôi làm nhẹ đi tâm hành đó. Tôi nhận diện, tôi ôm ấp nó và tôi làm cho nó nhẹ xuống. Người tu phải học để làm cho được chuyện đó khi có những lo lắng, sợ hãi tuyệt vọng thì phải biết ngồi xuống, theo dõi hơi thở để trở về nhận diện tâm hành đó, ôm lấy nó một cách rất nhẹ nhàng, làm cho nó nhẹ nhàng trở lại. Đó là tâm hành tức.

Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một kinh rất là khoa học và có thể đem ra áp dụng trong lãnh vực y khoa, trong lãnh vực tâm lý trị liệu, cả trong những lãnh vực chính trị và giáo dục nữa.

Thân hành là Kayasamskara. Kaya là thân. Khi mình có những giận hờn, buồn bã tuyệt vọng, mình không xử lý được, mình bị dồn nén xuống thì tự nhiên cách mình đối xử, nói năng với người kia trở thành bạo động, trách móc. Mình gây khổ đau cho người kia và từ từ sự truyền thông giữa hai người không còn nữa. Cha không còn nói chuyện được với con. Con gái không còn nói chuyện được với mẹ. Trong chùa cũng vậy, nếu mình chỉ lo làm việc mà không tu thì thầy trò cũng không nói chuyện được với nhau. Ngày hôm kia tôi có thấy một cặp thầy trò mà thầy không còn gọi con một cách ngọt ngào với đệ tử của mình được nữa mà xưng là tui. Tui với thầy, tui với cô. Nếu mình đã là người tu, đã là người xuất gia mà giữa thầy trò, không có sự truyền thông tức là cả hai thầy trò đều thiếu sự thực tập. Thầy làm khổ cho trò, trò làm khổ cho thầy. Đó là sự thất bại của cả hai thầy trò. Đừng để cho chuyện đó xảy ra. Ốt dột[2] lắm nghe con! Giữa huynh đệ cũng vậy. Giữa huynh đệ cũng đừng để xảy ra như vậy. Đó là sự thất bại của cả chúng. Khi một cặp huynh đệ không nói chuyện được với nhau thì mình thấy rõ đó là sự thất bại của mình. Mình phải tới để giúp hai người đó. Vì vậy một trong những cái khổ mà mình thấy được là truyền thông bế tắc. Đây là sự thật về khổ đế. Có sự truyền thông bế tắc giữa cha con, giữa vợ chồng, giữa anh em, giữa đồng nghiệp, giữa huynh đệ trong tăng thân. Khi thiếu sự truyền thông trong tăng thân thì tăng thân đó chưa phải là tăng thân thiệt. Dù là ở chung dưới một ngôi chùa nhưng không ai nói chuyện được với ai, thì đó không phải là tăng thân, đó không phải là tăng bảo, không phải là chỗ để người ta quy y, không phải là chỗ nương tựa cho người ta. Muốn tăng bảo là chỗ để người ta nương tựa được thì mình phải làm thế nào để trong tăng thân có sự truyền thông với nhau giữa thầy trò, giữa huynh đệ. Đó là sự thực tập của mình, đó là sự thực tập căn bản. Không có sự truyền thông thì có sự lên án, trách móc, đỗ lỗi tại vì người kia. Mình không có lỗi gì hết. Tất cả khổ đau là do người kia. Có sự đổ lỗi cho nhau. Mỗi người trong chúng ta phải tiếp tục, vì thầy đâu có thể làm cho mình được.

Biết ơn người xưa là phải học cái hay
của người xưa và làm cho hay hơn người xưa.

Mỗi thầy, mỗi sư cô, sư chú, mỗi đạo hữu, phải về lấy một tờ giấy, trình bày khổ đế trên căn bản kinh nghiệm riêng của mình. Mình khổ cái gì và những người chung quanh mình khổ cái gì thì viết ra hết. Mỗi người phải có bản trình bày Tứ Diệu Đế của mình và nó càng gần sự thật chừng nào thì tu càng dễ thành, dễ chuyển hóa chừng đó. Không cần phải lập lại những lời của người xưa. Người xưa ở trong khung cảnh khác. Văn hóa, kinh tế, chính trị khác. Tại sao bây giờ mình phải lập lại. Mình phải lấy kinh nghiệm trực tiếp để nói ra những cái khổ thực có của mình. Ví dụ như tự tử. Tự tử có phải là cái khổ không ? Ở Pháp, dân số ít hơn dân Việt nam mà mỗi năm có mười hai ngàn thanh niên tự tử. Cha mẹ làm ăn sao đó mà con cái bức xúc. Con cái làm ăn sao đó mà cha mẹ bức xúc. Hai bên thiếu sự truyền thông với nhau rồi đưa đến những cảm xúc lớn như tuyệt vọng, hận thù, không xử lý được, nghĩ rằng khổ quá, chỉ còn cách tự tử cho bớt khổ mà thôi. Ở Anh số thanh niên tự tử còn nhiều hơn nữa. Ở Hồng Kông những người trẻ nhảy từ cao ốc tự tử rất nhiều. Ở Việt Nam tình trạng này cũng đang gia tăng. Năm ngoái có năm nữ học sinh trung học rũ nhau cột tay nhau nhảy sông tự tử một lần tại vì cha mẹ muốn mình làm những cái mà mình không thể nào làm được. Cha mẹ trách móc, cha mẹ áp đặt, bức xúc mình nhiều quá. Cái đó là do thiếu truyền thông mà ra. Do thiếu hiểu cho nên không thương. Mình sống trong thế kỷ của mình, trong thời đại của mình, mình phải diễn bày như thế nào để sự thật thứ nhất cho phù hợp chứ đừng bắt chước người xưa, cầu bất đắc khổ, oán tằng hội khổ, nó không phù hợp với bây giờ. Nói như vậy không có nghĩa là mình không biết ơn người xưa. Một cách hay nhất để biết ơn người xưa là phải học cái hay của người xưa và làm cho hay hơn người xưa. Cha mẹ luôn luôn muốn cho con hay hơn mình, thầy luôn luôn muốn học trò, đệ tử giỏi hơn mình vì vậy cho nên mình phải đi tới. Đạo phật càng ngày càng đẹp hơn càng rộng hơn, càng sáng hơn chứ đừng giữ lại cái đạo Phật của năm xưa. Vì vậy cho nên sau khi đã có đạo phật nguyên thủy, mình đã có đạo phật bộ phái rồi đạo phật Đại thừa, rồi đạo phật nhập thế. Phải càng ngày càng đi lên.

Khi mình có bảng ghi đệ nhất khổ đế rồi thì mình giữ đó. Mình có thể trao đổi với các huynh đệ. Sư anh thấy sao? Sư anh có thể cho em xem với. Mình trao truyền với nhau để có sự bổ túc rồi có buổi họp tăng thân để diễn tả trình bày về đệ nhất khổ đế hiện đại. Khi người trẻ nhìn vào họ thấy đây là vấn đề của chính mình. Họ nói nếu anh có những nỗi khổ như thế này thì sẽ có con đường thoát khổ cho anh. Nó đi tới sự thật thứ hai, sự thật thứ ba, sự thật thứ tư, nhưng trước hết phải gọi đúng tên của nó, những đau khổ hiện thực bây giờ của người trẻ. Mình không cần làm riêng. Mình có thể làm chung tăng thân hoặc nhiều tăng thân. Tăng thân này trao đổi với tăng thân khác cho đến khi mình có một cái bảng diễn tả rất đầy đủ bốn sự thật, nhất là sự thật thứ nhất. Sự thật thứ nhất đầy đủ rồi hoặc gần như đầy đủ thì sự thật thứ hai, sự thật thứ ba, thứ tư sẽ khá. Nếu sự thật thứ nhất không nói ra được hết và được sâu thì sự thật thứ hai, thứ ba, thứ tư không đi xa được đâu. Tất cả đều từ sự thật thứ nhất mà ra.

Địa cầu đang bị hâm nóng

Những sự thật mà người ta không thể không công nhận là địa cầu đang bị hâm nóng và thời tiết thay đổi đáng sợ. Có những trận bão như trận bão ở Miến Điện, chết trên một trăm ngàn người. Những trận động đất như ở Tứ Xuyên chết trên ba chục ngàn người trong giây lát vì con người đã khai thác thiên nhiên không thương tiếc. Ba chục năm qua, Trung Quốc muốn chạy theo các nuớc tây phương đã khai thác thiên nhiên không thương tiếc. Thiên nhiên đã quật trở lại. Đó là cái khổ của thế kỷ hai mươi mốt mà mình phải viết ra như một phần của đệ nhất khổ đế. Hiệu ứng nhà kính, sự thay đổi của khí hậu, địa cầu bị hâm nóng. Mình phải nối tiếp công trình của đức Bổn sư. Đức Bổn sư đã khai phá ra. Là kẻ đi sau mình phải trình bày khổ đế một cách đầy đủ rõ ràng hiện thực. Đừng ở trong giấc mơ, đừng lập lại như con vẹt những gì người xưa đã nói.



Phần 2

Kính thưa đại chúng, hôm nay là ngày 22 tháng 5 năm 2008. Chúng ta đang ở tại tổ đình Từ Hiếu chuẩn bị vào khóa kiết hạ an cư.

Hôm qua chúng ta đã nghe về sự thật thứ nhất là khổ, chúng ta đã biết mỗi người nên có một bản kê những cái khổ mà mình đang có và những cái khổ mà mình cảm thấy được chung quanh mình. Sau khi kê ra mình so sánh cái của mình với cái của những bạn tu của mình. Mình sẽ có bản liệt kê những cái khổ của mình từ thân đến tâm và từ thân tâm đến hoàn cảnh. Thân, tâm, hoàn cảnh. Hôm qua chúng ta đã nói tới sự căng thẳng đang dồn chứa trong hình hài của mình do đời sống quá bận rộn, có quá nhiều đòi hỏi và ai cũng biết rằng khi những căng thẳng bị dồn nén quá nhiều thì sẽ sinh ra đủ loại bệnh tật. Trước hết là bệnh về thân và sau đó là bệnh về tâm. Vì vậy cho nên nhận diện được cái khổ đầu tiên là sự căng thẳng của mình, giúp mình thấy được nguyên do của sự căng thẳng đó khi thấy được nguyên do sự căng thẳng đó thì mình thấy được sự thật thứ hai, Tập đế.

Tập là sự hình thành.

Tiếng Anh gọi là The making of illbeing. Căng thẳng là cái mình dễ tiếp xúc trong giây phút hiện tại. Ngay trong cơ thể mình nó đang có sự căng thẳng. Điều này mình giác ngộ ra được bằng bài tập thứ ba của kinh An Ban Thủ Ý. Thở vào tôi có ý thức về toàn thân tôi, có những sự căng thẳng trong đó. Lập tức trong khi mình thở ra thì mình buông bỏ sự căng thẳng ở trong thân. Nếu biết cách thì buông bỏ rất mau. Có hai phương thức để đối trị với căng thẳng. Một phương pháp nhất thời và một phương pháp trường cữu. Ví dụ khi mình thực tập thiền buông thư, mình có thể buông bỏ những căng thẳng trong thân. Hoặc khi mình thực tập bài thứ ba trong kinh An Ban Thủ Ý: Thở vào tôi ý thức được hinh hài tôi với những căng thẳng trong đó. Thở ra tôi buông bỏ những căng thẳng trong thân. Thì đó là những giải pháp cấp thời để buông bỏ. Trong khi thực tập thì mình tiếp tục sống cách mình đã từng sống và mình tiếp tục dồn chứa những căng thẳng đó.

Vì vậy buông thư và tập buông thư chẳng qua là những biện pháp nhất thời. Cũng như khi bệnh mình tới thầy châm cứu. Sau khi châm cứu chừng nữa giờ thì thấy đỡ liền lúc đó vì kinh mạch được khai thông. Nhưng trở về mình được khỏe vài ba ngày rồi đau nhức trở lại vì cách sống của mình nó lại đưa tới sự bế tắc kinh mạch trở lại. Châm cứu không phải là biện pháp lâu dài, nó chỉ là biện pháp nhất thời. Những buổi thiền buông thư, thiền nằm, chỉ có tác dụng nhất thời nhưng nó đỡ lắm. Phương thức dài hơn là mình cần thay đổi cách sống của mình, thay đổi thời khóa sinh hoạt của mình, lúc đó mình mới có được sự buông thư lâu dài.

Trong kinh đức Thế Tôn cũng có dạy mình làm như vậy. Trong khi mình quản lý, chăm sóc thân thì đồng thời mình cũng quản lý chăm sóc tâm, tại vì thân và tâm liên hệ với nhau. Ví dụ phương pháp đi thiền mình có thể áp dụng không chỉ những lúc đi với đại chúng mà mình có thể áp dụng hằng ngày. Bất cứ lúc nào có nhu yếu cần di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác là mình thực tập đi thiền, tức là từng bước chân thảnh thơi. Mỗi bước chân đều buông thư hết và ngày nào cũng vậy, có cơ hội di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, như từ nhà mình ra chỗ lấy xe, từ nhà mình ra trạm xe buýt, những lúc đó mình phải thực tập thiền đi. Thiền đi đưa tới sự thư giản trong từng bước chân.

Khi thực tập thiền đi ta phải nắm lấy tâm. Ta phải đưa cái tâm về với hơi thở. Ta phải đưa cái tâm về với bước chân và đi từng bước thảnh thơi: Con đã về, con đã tới. Mỗi bước chân là sự sống, mỗi bước chân là phép lạ, mỗi bước chân là trị liệu, mỗi bước chân là thảnh thơi. Mỗi bước chân giúp mình tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm. Mỗi bước chân giúp mình thấy được mình đang còn sống và bước được những bước như vậy là một phép lạ, địa hành thần thông. Đi như vậy thì mỗi bước chân có tác dụng trị liệu và mỗi bước chân đem tới sự thảnh thơi.

Vì vậy trong khi đi ta có sự buông thư rồi chứ không phải nằm ta mới có sự buông thư, ngồi mới thực tập buông thư. Nếu thực tập được thì khi lái xe máy, xe hơi, ta cũng buông thư được, không căng thẳng. Khi gặp đèn đỏ chúng ta buông thư trở lại, chúng ta nhìn đèn đỏ như là chuông chánh niệm. Chúng ta mỉm cười, chúng ta buông thư và điều đó cần có sự thông minh của người thực tập, phải lợi dụng bất cứ cơ hội nào để dừng lại và buông thư.

Dừng lại buông thư tức là chỉ. Chỉ có nghĩa là dừng lại và buông thư. Thiền có hai phần, một phần là chỉ, một phần là quán. Chỉ có nghĩa là dừng lại, tập trung và buông thư. Khi mình đi bộ, khi mình rửa bát, khi mình quét lá sân chùa, mình có thể thực tập chỉ được. Đừng có làm hối hả. Chính hối hả mang tới sự căng thẳng. Đem tâm trở về với thân, làm công việc mình đang làm nhẹ nhàng, thoải mái, cho mình có thêm thì giờ để làm chuyện đó. Làm không phải để cho xong chuyện đó mà làm phải có an lạc hạnh phúc trong khi làm. Ví dụ mình cho mình một bài tập, bữa nay mình rữa chén. Mình quyết làm thế nào để trong thời gian rữa chén đó mình có hạnh phúc. Mình không cần phải làm hấp tấp cho mau xong. Trong khi rửa chén mình đứng cho thư thái, mình rửa cho thư thái, mình mỉm cười và thấy rằng, thời gian rửa chén có thể có hạnh phúc. Điều đó cũng dễ thôi. Ví dụ ngày xưa ở tổ đình Từ Hiếu, chú tiểu phải rửa chén cho cả trăm người mà hồi đó không có nước nóng, không có xà phòng, chỉ có tro bếp, bẹ dừa. Mình phải đun lên một nồi nước sôi. Mình không được đứng mà phải ngồi chồm hổm để rửa. Giờ đây, rửa chén mình có nước máy, có xà phòng đủ thứ, nếu ý thức được thì mình có hạnh phúc liền. Trong khi rửa chén, mình đã có hạnh phúc chứ đừng nói rửa chén xong, ngồi xuống cầm ly trà lên mới có hạnh phúc. Đừng nghĩ như vậy. Nếu rửa chén không có hạnh phúc thì ngồi xuống cầm ly trà lên cũng không hạnh phúc đâu. Mình còn phải làm cái này, còn phải làm cái kia cho nên trong khi uống trà, mình cũng không có khả năng hạnh phúc. Tu là phải có khả năng có hạnh phúc. Đừng nghĩ rằng, mình phải làm cái đó rồi mình mới có khả năng có hạnh phúc, mới khỏe được.

Tại Hà Nội, thầy có đi thăm chùa mới và thầy đó nói rằng, trong những năm qua, thầy đã xây dựng rất nhiều và chỉ cần nữa năm nữa thôi là khỏe. Thầy nói, đừng đợi nữa năm mới khỏe, khỏe liền bây giờ đi. Làm thì làm, tại sao phải đợi làm xong mới khỏe, làm thì cứ làm thôi. Trong khi làm mình cứ khỏe như thường. Đó là cả nghệ thuật tu. Tu là cả một nghệ thuật. Người tu là một nghệ sĩ, nghệ sĩ phải có sáng tạo, phải biết cách tổ chức cuộc đời của mình để cho mỗi giây phút của đời sống hằng ngày đều là mỗi giây phút thư giản, đều có hạnh phúc, dầu giây phút đó là lái xe, rửa chén, tưới rau hay quét nhà, giặt áo, đều phải làm cho có hạnh phúc trong mỗi giây phút đó. Đi xa hơn nữa, mình phải biết tổ chức đời sống của mình để mình đừng hấp tấp, hối hả thì mình chỉ bảo vệ được cho riêng mình thôi, mà bảo vệ cũng khó tại vì hoàn cảnh nó có khả năng thúc đẩy mà mình phải chống cự thì mới có thể sống sót được. Chung quanh mình mọi người đi như ma đuổi, mà riêng mình đi thảnh thơi, thì mình cần phải có một ý chí rất lớn.

Mình phải đóng góp vào sự chuyển đổi cách sống của xã hội, làm thế nào để cho xã hội bớt xô bồ, bớt hối hả. Đây là công trình lớn của tập thể những người tu. Trước hết mình tổ chức một tăng thân. Tăng thân là những người đồng ý với nhau, đời sống hối hả như vậy nó tàn phá con người quá thành ra mình tập họp lại, lập ra một quy ước cho tăng thân mình để cho mình mỗi ngày có thì giờ ngồi yên, mỗi ngày có thể đi từng bước chân thảnh thơi và mình lập ra thời biểu để mình có thể sống hạnh phúc, không bị sự căng thẳng. Vì vậy cho nên tăng thân là tiểu xã hội đầu tiên giúp mình làm được chuyện đó tại vì các sư anh, sư chị, sư em, các phật tử tới tu đều làm như vậy cho nên mình không bị áp lực nữa. Ai cũng làm như vậy và mình cũng được trông đợi, phải làm như vậy thì mới đúng là người tu thì lúc đó mình tạo ra được không gian, hoàn cảnh mà trong đó sự thực tập thư giản, thảnh thơi của mình được yểm trợ.

Tăng thân là chỗ nương tựa đầu và từ tăng thân mình tiến vô xã hội làm vơi bớt sự hối hả kia. Giờ đây các em của mình tuy còn nhỏ, còn học tiểu học, nhưng mà đã có quá nhiều căng thẳng. Cha mẹ muốn con mình bắt kịp những đứa khác. Những trẻ khác cha mẹ bắt phải đi học thêm, thành ra trẻ em bây giờ phải đi học bảy ngày một tuần. Có những thầy cô giáo muốn có tiền thêm nên tổ chức dạy kèm. Người nào không cho con đi học, thầy cô giáo đó không thích, làm khó làm dễ con mình cho nên có khuynh hướng bắt trẻ em đi học quá nhiều, trẻ em không có thì giờ đi chơi thoải mái nữa. Trẻ em bị áp lực rất nhiều ngay từ hồi còn nhỏ. Vì vậy cho nên lớn lên nó sẽ khổ, khổ hơn. Xã hội đang được tổ chức theo cách thức càng ngày càng mất sự thoải mái, đánh mất cái nhàn.

Nhàn là yếu tố lớn của sự hạnh phúc. Nếu không có nhàn thì không tiếp xúc được những mầu nhiệm của sự sống như ánh trăng trước ngõ, ngôi sao lấp lánh trên trời, cây cỏ xanh tươi, vì mình đâu có thì giờ để thưởng thức những chuyện đó. Cho nên mình bắt đầu từ chính mình, từ Tăng thân của mình rồi mình mới có thể giúp cho xã hội thay đổi. Xã hội đang đi trên đà như vậy đó, cái đà buộc con người phải hối hả, phải đánh mất mình, không có thì giờ để sống cho mình, không có thì giờ để chăm sóc thân và tâm của mình, không có thì giờ để săn sóc cho người thương của mình là tại vì người nào cũng phải đua đòi để đừng bị tụt hậu, để kiếm sống để leo lên nấc thang danh vọng. Cái đó dẫn đến sự khai thác không thương tiếc tài nguyên trái đất, làm đỗ vỡ tất cả, đi tới hướng diệt vong.

Mình phải bắt đầu từ hơi thở mà đi tới. Nắm được hơi thở là nắm được thân. Nắm được thân rồi nắm được tâm. Nắm thân tâm rồi mới tổ chức tăng thân. Có tăng thân mới đi vào xã hội, tạo ảnh hưởng lên xã hội. Đó là sứ mạng của người tu.

Khổ là một danh từ chung, hơi tổng quát, cho nên mình phải gọi tên của cái khổ, gọi bằng tên thiệt của cái khổ. Mình gọi tên nó là căng thẳng, là bất an. Trong chúng ta có năng lượng của sự bất an. Phải công nhận như vậy. Chúng ta không có an. Không có an trong thân và không có an trong tâm. Không có an thì không có lạc. Danh từ Phật học nói an lạc. Không có an làm gì có lạc. Không có lạc thì khổ. Mình khổ thì làm cho người ta khổ. Mình bất an cho nên mình đứng không yên, ngồi không yên, nằm không yên. Phạm Duy có bài hát Đá và Trăng. Trăng ơi im lặng suốt đời. Mà sao ta vẫn đứng ngồi không yên. Năng luợng bất an trong con người mình, mình thấy rất rõ. Ngồi không yên, nằm cũng không yên. Trăn trở, lo lắng, sợ hãi không biết phải làm gì. Trong bất an có sự lo lắng sợ hãi mà không biết mình lo cái gì, sợ cái gì.

Bất an có năng lượng lo lắng sợ hãi. Đem bất an ra mà phân tích mình thấy có lo lắng, sợ hãi mà không biết mình lo cái gì, sợ cái gì. Phải nhìn cho thiệt kỹ để biết rằng, đối tương của cái lo là gì, đối tượng của cái sợ là gì? Mình lo cái gì đó, sợ cái gì đó thành ra bất an. Đạo Phật dạy mình trước hết tập ngồi cho yên, ngồi trên đóa sen. Ngồi trên đóa sen là hình ảnh rất nghệ thuật. Ngồi trên đóa sen có nghĩa là ngồi rất yên, rất tươi mát, nhẹ nhàng.

Phần lớn chúng ta chưa ngồi trên đóa sen mà ngồi trên đống than hồng, ngồi trên đống lửa, không yên. Cho nên phải tập như đức Bổn sư, khi ngồi là ngồi trên sen, dầu ngồi trên bãi cỏ, bờ sông, bãi biển, ở công viên, trong trường học, trên xe hơi, cũng phải ngồi trên đóa sen. Ngồi là một nghệ thuật, gọi là an tọa. Bên Pháp tôi có một thất nho nhỏ gọi là thất ngồi yên. Nói ngồi yên thì dễ. Ngồi yên được, mới khó. Là con Phật, con Bụt, trước hết mình phải tập ngồi yên, an tọa. Mời bác an tọa, mời thầy an tọa. An tọa mới có hạnh phúc. Ngồi thiền trước hết là để ngồi yên. Mỗi ngày mình có buổi sáng để học ngồi yên. Mỗi ngày mình có buổi tối để học ngồi yên. Mình có hạnh phúc rất lớn. Có những người họ không có thì giờ để ngồi yên. Nếu mình coi thời gian đó mình bị buộc phải ngồi yên thì tội cho mình quá. Mình là người may mắn nhất đời mà mình lại coi giờ ngồi thiền là giờ lao động mệt nhọc, thì tội nghiệp cho mình lắm. Học ngồi yên và khi đi mình cũng an hành. Đi từng bước, có an và có lạc.

Bộ bộ an lạc hành. Người tu phải làm cho được những chuyện đó. Đâu cần phải tốn tiền. Ngồi yên không cần phải tốn tiền. Đi yên đâu cần phải tốn tiền. Bộ bộ an lạc hành, dịch là từng bước chân thảnh thơi. từng bước chân hạnh phúc. Mỗi bước đều có an, mỗi bước đều có lạc. Đi thiền là đi thế nào để mỗi bước có an và có lạc. Ở chùa, mỗi ngày mình được đi chung với chúng một lần, ngoài ra khi nào khi nào cần đi mình cũng áp dụng phương pháp đi trong chánh niệm. Mỗi bước chân đều đem về an, đều đem về lạc hết. Bộ bộ an lạc hành, từng bước chân thảnh thơi. Peace is every step. Joy is every step.

Sự bất an trong mình, mình phải nhận diện nó. Thở vào tôi biết có sự bất an trong tôi. Tôi không dối tôi, tôi không dối người khác là trong tôi không có sự bất an, vì vậy tôi không có hạnh phúc. Tôi thấy tôi đang đi tìm cái gì đó mà tôi thấy hình như tôi tìm chưa ra. Thật ra nếu nhìn thật sâu vào sự bất an của mình, mình thấy có nhiều lý do trong đó. Trong một cái, mình có thể tìm ra nhiều cái. Nó có sự sợ hãi, nó có sự lo lắng, nó có sự mê mờ, mình không biết là mình đang đi về đâu? Mình thật sự cũng không biết mình muốn cái gì? Mình thật sự chưa có con đường, chưa thấy con đường. Mình nói mình là phật tử, mình có Phật, Pháp, Tăng dẫn đường mình đi nhưng mình chỉ có ý niệm mơ hồ thôi, không thấy con đường rõ ràng. Thấy được con đường rồi thì không còn lo sợ nữa. Đã có đường đi rồi, con không còn lo sợ. Con đường đó là Pháp. Pháp là cái gì rất là cụ thể. Ví dụ khi có sự căng thẳng, mình biết cách nhận diện và đối trị sự căng thẳng. Khi có sự bất an mình biết nhận diện sự bất an và làm cho bất an đó chuyển thành an. Khi có sự giận hờn, mình biết sự giận hờn và có phương pháp để đối trị sự giận hờn. Khi có sự lo lắng, mình có khả năng nhận diện sự lo lắng và có phương pháp đối trị sự lo lắng. Cũng như việc nấu canh. Khi nếm canh thấy còn lạt, mình biết phải làm gì để canh vừa miệng. Khi canh mặn, mình biết phải làm gì để canh đừng mặn.

Mình có niềm tin nên không sợ hãi. Người tu cũng nắm vững những phương pháp chuyển hóa. Khi có mệt mỏi, căng thẳng, lo lắng, sợ hãi, mình biết cách đối phó. Biết rồi thì không còn lo sợ nữa. Cho nên, đã có đường đi rồi, con không còn lo sợ là như vậy. Vì lo sợ, nghi ngờ nên mình bất an. Bất an nên không có hạnh phúc. Mình phải gọi tên, đem cái bất an của mình ra mà phân tích. Phân tích từng chất một như các nhà dược học phân tích một lá cây gồm những chất gì. Bất an của mình nó cũng có những chất liệu như mê mờ, vô mình, sợ hãi, lo lắng. Mình đi tìm gốc rễ của những lo lắng, sợ hãi đó tức là từ sự thật thứ nhất mình đi tìm sự thật thứ hai, gọi là tập đế.

Hôm qua chúng ta có làm danh sách, những cái tên của khổ, khổ đế. Làm xong danh sách rồi, nhìn vào từng cái để coi gốc rễ nó là cái gì. Ví dụ như sáng nay mình nói căng thẳng có gốc rễ ở đời sống quá hối hả, quá bận rộn, có nhiều đòi hỏi và mình tìm ra được sự thật thứ hai của Tứ Diệu Đế. Tìm được cái thứ hai rồi thì mình tìm được sự thật thứ tư là đạo đế. Khi mình muốn đi tìm sự thật thứ hai thì mình phải bám lấy sự thật thứ nhất. Vì ngoài sự thật thứ nhất, không thể nào tìm thấy sự thật thứ hai. Phải gọi tên sự thật thứ nhất, nhìn sâu sự thật thứ nhất thì tự khắc thấy sự thật thứ hai. Ví dụ nhìn vào sự căng thẳng mình biết nguyên do đưa tới sự căng thẳng. Nhìn vào sự bất an mình biết nguyên do đưa tối sự bất an. Mình phải liệt kê cho đàng hoàng. Mình là người tu, mình là nhà khoa học. Văn bản của mình nó cũng như toán học, không có gì mù mờ hết.

Ví dụ hiện tượng trẻ em bỏ nhà ra đi là một cái khổ trong xã hội. Ngày hôm qua mình gọi tên nhiều cái khổ. Hôm nay mình gọi thêm vài tên nữa. Hôm qua mình gọi tên tự tử vì trong xã hội có quá nhiều người tự tử. Tự tử trực tiếp, tự tử gián tiếp. Ở Pháp mình biết mỗi năm có khoảng mười hai ngàn thanh niên tự tử. Những người Hồng Kông nhảy xuống lầu tự tử ngày càng đông. Ở bên Anh nhiều hơn nữa. Bên Mỹ cũng nhiều lắm và Việt Nam bắt đầu thanh niên tự tử rất nhiều. Mỗi năm ở Pháp có khoảng bốn chục ngàn trẻ em bỏ nhà ra đi. Tại sao con nít bỏ nhà ra đi? Tại vì trong gia đình không khí ngột ngạt. Ba làm khổ má, má làm khổ ba. Ba không hiểu được con, con không hiểu được mẹ. Những đứa trẻ không sống được với gia đình. Có đứa phải tự tử, có đứa bỏ nhà ra đi. Trong số bốn chục ngàn em đó có khoảng sáu bảy ngàn em đi theo những người mà nó chưa từng biết. Nó làm quen với người đó trên mạng lưới. Lấy cắp một ít tiền của ba má, có cái hẹn với người đó một nơi nào đó và đi theo họ. Đứa trẻ có thể đánh mất sự trong trắng của đời mình. Cảnh sát khi được tin thì thường kiểm tra máy tính để xem em đó đã thường liên lạc với ai. Nhờ đó mà họ có thể tìm ra được em đó để trả về cho gia đình.

Có một con yêu râu xanh tung ra cái lưới trên mạng. Nó hóa trang thành sinh viên hai mươi lăm tuổi. Nó tung lưới bắt được những em vị thành niên dại khờ. Cảnh sát đã bắt được anh ta. Số thanh thiếu niên bỏ nhà ra đi vì không khí ngột ngạt trong gia đình nhiều lắm. Khi mình nhìn vào cái khổ là thanh niên tự tử hay bỏ nhà ra đi thì mình đi tìm nguyên do, tìm sự thật thứ hai -tập đế- thì mình thấy rất rõ là có những bức xúc, những bế tắc trong lòng những người trẻ. Cái đó có nguồn gốc ở người lớn. Tìm được sự thật thứ hai rồi mình mới có cơ hội tìm sự thật thứ tư, phương pháp giải quyết vấn đề cho tận gốc, thay đổi nếp sống trong gia đình, trong học đường như thế nào? Phụ huynh phải tu tập như thế nào? Thầy cô giáo phải tu tập thế nào để có thể giúp được những đứa trẻ mà mình đang chăm sóc. Và các thầy, các sư cô nếu tu học giỏi, có phương pháp, thì sẽ biết phương pháp đó. Mình cũng có thể áp dụng trong chùa.

Trong chùa cũng có thể có những thầy, sư cô trẻ bỏ đi. Tại vì giữa sư trưởng và đệ tử có thể thiếu sự truyền thông, có sự ngột ngạt. Thầy trách đệ tử, đệ tử trách thầy. Trong chúng của mình cũng có thể thực tập những pháp môn như lắng nghe, ái ngữ với nhau để thiết lập lại sự truyền thông. Khi trong chúng làm được rồi thì mình mở những khóa tu cho người cư sĩ, cho các phụ huynh, cho các thầy cô giáo để họ cải thiện nếp sống trong gia đình, trong học đường. Như vậy mới giải quyết vấn đề đến tận gốc. Sự thật thứ nhất đưa tới sự thật thứ hai. Nắm được sự thật thứ hai rồi thì mình có sự thật thứ tư, con đường giải quyết. Mình đừng đợi người khác lập danh sách những nỗi khổ của mình. Mình phải tự làm lấy. Mình có thể tham khảo sư anh, sư chị của mình để họ giúp mình làm đúng hơn.

Một ví dụ khác, một tên khác của khổ là hiện tượng hâm nóng địa cầu. Hiện tượng ô nhiễm của sinh môi. Sinh môi là môi trường sinh hoạt mà mình cứ gọi là môi sinh hoài. Nói sinh môi mới đúng. Thà nói môi trường chứ không nên nói môi sinh. Ví dụ Trung Quốc trong những thập niên vừa qua muốn chạy theo các nước Tây phương đã khai thác không thương tiếc những tài nguyên của trái đất mà không thấy được hậu quả của nó. Bây giờ những hậu quả bắt đầu hiện ra, thiên tai đang ụp xuống con người. Nguyên nhân thứ nhất là do mình sử dụng xe hơi quá nhiều, mình sử dụng xe máy quá nhiều. Làm sao có đủ xăng cho tất cả mọi người. Mình chỉ có xe máy thôi nhưng mai mốt mình hy vọng sẽ có xe hơi. Nếu chưa có xe máy thì mình hy vọng mai mốt sẽ có xe máy. Những nước dân số đông như Trung Quốc, Ấn Độ, nếu mỗi ngươi đều có xe máy, xe hơi thì xăng ở đâu để cung cấp đủ. Chắc chắn không đủ cho mọi người đâu. Nếu đủ đi nữa thì tình trạng ô nhiễm của trái đất.

Nguyên nhân thứ hai là hiệu ứng nhà kính, nó lớn hơn cả xe hơi, đó là kỹ nghệ sản xuất thịt. Để chăn nuôi, người ta phải phá rừng. Khi phá rừng để trồng cỏ cho bò ăn, người ta đã tàn hại sinh môi rất nhiều. Những con bò bài tiết chất thải có nhiều CO2 hơn cả lượng CO2 xe hơi thải ra nữa. Báo cáo gần đây của Liên Hiệp Quốc, muốn cứu tình trạng sinh môi của trái đất thì mình phải giảm thiểu 50% kỹ nghệ chăn nuôi. Như vậy ít nhất mình cũng phải bớt ăn thịt 50%. Phật tử chúng ta biết ăn chay từ lâu. Có những người ăn chay trường. Nhưng cũng có một số trong chúng ta đang ăn chay bốn ngày, mười ngày. Mười ngày gọi là thập trai. Nhưng theo tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc, chúng ta phải ăn thập ngũ trai mới cứu được trái đất. Vậy quý vị nào chưa đủ mười lăm ngày ăn chay thì xin tăng thêm cho đủ. Hai mươi ngày lại càng quý hơn.

Hiện giờ tại tu viện Lộc Uyển ở Hoa kỳ, các thầy, các sư cô không dùng điện nữa. Họ dùng năng lượng của mặt trời phục vụ cho cả trăm người sống với nhau như vậy. Khi di chuyển thì dùng xe hơi chạy bằng dầu thực vật. Dầu thực vật gây ô nhiễm ít so với dầu xăng. Các thầy cũng làm phân xanh, trồng rau sạch. Các thầy đi tiên phong và dân chúng trong vùng đi theo các thầy nhiều lắm. Các thầy các sư cô dạy bằng thân giáo. Có nhiều bài báo viết về cách sống của các thầy về cách bảo vệ sinh môi như vậy, nên có nhiều người đi theo.

Mỗi tuần, các tu viện của làng Mai ở Âu Châu, hoặc Mỹ Châu thực tập ít nhất một ngày không xe hơi gọi là carfree day. Ở các chùa bên làng Mai, mỗi tuần có một ngày không dùng điện gọi là electryfree day. Mình ở trong xã hội tiêu thụ mà làm được như vậy là mình dạy người ta bằng thân giáo chứ không phải là bằng ngôn giáo. Tăng thân cư sĩ đi theo rất đông. Nếu họ phát nguyện một ngày không sử dụng xe hơi thì đó là phẩm vật cúng dường Tam Bảo, cúng dường đất mẹ. Tại Lộc Uyển, các cư sĩ đã thực hiện được sáu mươi ngàn ngày không xe hơi rồi. Đến ngày toàn cầu không xe hơi, 22 tháng 9 sắp tới, tu viện Lộc Uyển hy vọng cúng dường lên đức Thế tôn một trăm ngàn ngày không xe hơi.

Tại Paris, số lượng những người dùng xe trong ngày đó xuống rất thấp. Chỉ những ai cần cấp thiết mới dùng xe hơi. Mình làm gương cho dân chúng. Các thầy các sư cô đương nhiên ăn chay trường. Những người cư sĩ khi tham dự những khóa tu của họ bên Mỹ hay bên Đức, vào ngày chót họ thọ tam quy và năm giới, có khi số lượng lên đến năm bảy trăm người. Khi họ thọ năm giới như vậy, họ cũng thường phát nguyện ăn chay ít nhất là mười lăm ngày, thập ngũ trai. Bây giờ có danh từ thập ngũ trai là danh từ thời thượng, cư sĩ nên ăn chay mười lăm ngày để cúng dường cho trái đất. Trái đất là nơi đức Thích Ca đã chọn làm Phật độ của Ngài. Thương đức Thích Ca, mình phải thương trái đất này, thương Phật độ của Ngài, bảo hộ trái đất này.

Mình là con của đức Thích Ca mình phải bảo hộ trái đất mình, nối nghiệp Thầy của mình, nối nghiệp cha mình, đức Từ phụ. Trong khóa tu dành cho người Âu châu, Mỹ châu, các thiền sinh nghe lời thầy thọ năm giới, thực tập một ngày không xe mỗi tuần và ăn chay ít nhất mười lăm ngày mỗi tháng. Mình đã có truyền thống Phật giáo hai ngàn năm rồi, không lý mình làm dỡ hơn sao? Thành ra mình làm và khuyến khích bạn bè mình cùng làm nếu mình có mạng lưới, có thơ, mình nên khuyến khích bạn cùng làm và làm liền, đừng có đợi. Nói như vậy để thấy rằng nhìn vào sự thật thứ nhất là khổ đế, nhìn thật sâu thì thấy sự thật thứ hai là tập đế. Mà thấy được sự thật thứ hai rồi thì chắc chắn thấy được sự thật thứ tư là đạo đế, con đường lấy đi gốc rễ của khổ đau bằng hành động, bằng sự sống hằng ngày.

Sự thật thứ tư là đạo đế.

Đạo là con đường, là phương pháp. Có con đường rồi thì mình không còn lo sợ nữa. Mình an tâm, dầu có chết chiều nay mình cũng vui như thường, tại có con đường rồi. Những ai không có con đường mới lo sợ. Mình đã có con đường, có niềm tin rồi thì không lo sợ nữa. Đạo tiếng Anh là path. Ví dụ mình nói đến sự bế tắc, sự đánh mất truyền thông giữa vợ với chồng, giữa cha với con. Vợ chồng nói chuyện với nhau không được nữa, cha con nói chuyện với nhau không được nữa. Nhìn vào bế tắc đó, đánh mất sự truyền thông thì mình thấy được cái tập: hai bên có những hiểu lầm, những tri giác sai lầm về nhau. Khi nói năng mình dùng những ngôn từ gây đổ vỡ. Khi người kia nói với mình bằng những ngôn từ lên án, buộc tội khiêu khích, mình không có khả năng nghe được người đó.

Sự bế tắc đó, nhìn cho kỹ, do giận hờn, do không có khả năng lắng nghe được người kia. Cha không có khả năng lắng nghe được con, con không lắng nghe được cha. Cha không nói được lời ái ngữ với con, con không nói được lời ái ngữ với cha. Đó là sự thật thứ hai, tập đế. Khi thấy được tập đế rồi thì thấy được đạo đế. Muốn tái lập truyền thông thì phải biết xử lý nhận diện những bực bội của mình, những năng lượng bạo động trong mình làm cho êm dịu xuống. Thực tập lắng nghe, thực tập ái ngữ, tái lập truyền thông. Cái đó là đạo đế. Đạo đế chỉ thấy được khi mình thấy được tập đế. Nếu không mang tập đế theo thì không cách gì thấy đạo đế được. Ba chân lý đó, đi chung với nhau, không có cái nào tách rời cái nào.

Sự thật thứ ba là diệt đế.

Diệt ở đây có nghĩa là sự chấm dứt của khổ. The ending of illbeing. Sự thật thứ ba là một nốt nhạc trầm hùng, lạc quan của Tứ Diệu Đế. Tại vì sự thật thứ nhất xác nhận sự có mặt của đau khổ và sự thật thứ ba xác nhận khả năng chấm dứt khổ đau. Cũng như ông bác sĩ xác nhận anh có bệnh nhưng tôi trị được bệnh này cho anh. Anh có bệnh là sự thật thứ nhất. Tôi trị được bệnh này cho anh là sự thật thứ ba. Sự thật thứ ba là một nốt nhạc tích cực, mình biết rằng diệt, tức khổ diệt. Khi khổ diệt thì cái khác sanh. Cái đó là lạc sanh. Sự chấm dứt của khổ đau có nghĩa là sự có mặt của hạnh phúc. Khi giảng Tứ Diệu Đế cho người trẻ, mình đừng dùng cách diễn tả tiêu cực mà tập diễn tả tích cực. Sự chấm dứt khổ đau là sự bắt đầu của hạnh phúc. The ending of illbeing is thebegining of welling. Vì vậy Diệt Đế là sự có mặt của hạnh phúc, của an vui. Hôm qua mình đã nghe sự vắng mặt của bóng tối là sự có mặt của ánh sáng. Hai cái đó là một. Trong kinh nói vô minh diệt, minh sinh. Rất rõ ràng. Chính đức Thế Tôn từ miệng nói ra, vô minh diệt, minh sinh. Khi vô minh chấm dứt thì sự sáng suốt phát sinh. Sự vắng mặt của vô minh là sự có mặt của minh. Cho nên sự vắng mặt của khổ đau có nghĩa là sự có mặt của hạnh phúc.

Vì vậy Tứ Diệu Đế nói rằng hạnh phúc là chuyện có thể có được, nếu anh muốn. Tập đế cũng là một loại con đường, nhưng thay vì con đường đưa tới hạnh phúc, nó là con đường đưa tới khổ đau. Tập cũng là một loại con đường, con đường đó là con đường tà đạo, con đường đưa tới khổ đau. Đạo đế là con đường chánh đạo, con đường đưa tới hạnh phúc. Đạo đế đưa tới Diệt đế. Tập đế đưa tới Khổ đế. Đó là hai cặp nhân quả. Đạo đế là nhân, Diệt đế là quả. Tập đế là nhân, Khổ đế là quả.

Chúng ta là những người tu, có ý chí muốn tu. Tu tức là chuyển hóa khổ đau thành ra hạnh phúc. Chúng ta phải theo nguyên tắc Tứ Diệu Đế. Chúng ta phải có cái y án rõ ràng. Mình phải biết mình có bệnh gì, có những khổ đau nào, mình nhìn sâu vào khổ đau đó. Khi nhìn thấy rồi thì tự nhiên phương pháp trị liệu nó hiện ra. Cái đó là sự thật thứ tư, Đạo đế. Những người thấy được sự thật thứ tư là những người thấy đạo, kiến đạo. Chỉ cần kiến đạo thôi chưa cần tu đạo đã thấy khỏe lắm rồi, vì mình biết đường mình đi rồi, biết cách đích xác, chứ không phải biết lý thuyết. Kiến đạo chứ chưa cần tu đạo là trong người đã khỏe rồi. Ngày xưa có thầy nói rằng nếu phân tích bốn sự thật này ra thì sẽ có một cái là vô vi và ba cái là hữu vi. Diệt đế là Niết Bàn là vô vi còn ba cái kia là hữu vi. Nói như thế dễ khiến người hiểu nhầm lẫn. Làm sao hữu vi trộn lẫn với vô vi. Nó đứng một hàng, nếu vô vi thì vô vi hết, hữu vi thì hữu vi hết. Làm sao một cái vô vi, còn những cái còn lại là hữu vi.

Đứng về phương diện tích môn, hiện tượng giới mà mói, cả bốn đều là hữu vi hết. Khổ đau cũng như hạnh phúc đều là hữu vi hết. Bốn cái không thể tách rời ra mà có được. Cái này nương nhờ nhau mà có. Một cái chứa đựng ba cái kia, tương tức. Đó là cái thấy về Tứ Đế. Nó ở chiều sâu. Nếu tách rời ba cái kia thì mình không thấy được cái này. Nhờ nhìn ba cái kia mà thấy được cái này. Cái đó áp dụng cho cả bốn. Nếu nhìn sâu vào một cái xuống bản thể, tức nhìn vào phương diện tướng để đi vào tánh thì bốn cái đều là vô vi hết. Hữu vi thì hữu vi hết. Vô vi thì vô vi hết.

Trong Tâm kinh, mình tụng hàng ngày, phần lớn mình tụng như con vẹt. Đã nói không có khổ, không có tập, không có diệt, không có đạo. Nó có nghĩa, tách rời ba cái kia thì không thể có cái này. Khổ đế không có thực tại riêng biệt, nó được tạo bởi ba cái đế kia. Tập đế cũng vậy, nó không phải là sự thật riêng biệt, nó được làm bởi ba cái kia. Đạo đế cũng vậy và Diệt đế cũng vậy thôi. Diệt là cái gì diệt mới được chứ! Sanh là cái gì sanh mới được chứ! Diệt tức phiền não diệt. Mà phiền não diệt tức hạnh phúc sanh ra, an lạc sanh ra. Đó là đứng về phương diện hiện tượng mà nói, tướng mà nói. Còn đi sâu vào làm gì có sanh mà có diệt?

Cho nên mình đừng nên nói đã hiểu Tứ Diệu Đế rồi. Có ai hỏi, thầy biết Tứ Diệu Đế chưa, sư cô hiểu Tứ Diệu Đế chưa, đạo hữu hiểu Tứ Diệu Đế chưa? Muốn chắc ăn thì nói, con hiểu sơ sơ. Nói tôi hiểu rồi là không đúng. Không ai hiểu Tứ Diệu Đế một cách hoàn hảo đâu. Nếu mình có tâm học hỏi thì sang năm cái thấy của mình về Tứ Diệu Đế sẽ sâu hơn cái thấy của mình năm nay và mình sẵn sàng buông bỏ cái hiểu của mình của năm nay để có thể có được cái hiểu sâu của sang năm. Cái đó gọi là vượt thắng kiến thủ, tức là vượt thắng cái mình cho là sự thật để mình đi tới một sự thật sâu sắc hơn.


[1] Tăng thân
[2] tiếng địa phương xứ Huế, có nghĩa xấu hổ.
(phusaonline.free.fr/)