Thursday, July 29, 2010

Trần Phong Giao và những người viết trẻ

Trần Phong Giao và những người viết trẻ

Trần Hoài Thư

Trần Phong Giao và những người viết trẻ (1)


1. Thời ấy, thời những năm 60, nói đến văn học miền Nam là nói đến nhóm, là phải nhắc đến Sáng Tạo, Hiện đại, Thế Kỷ 20 v.v… Những đề tài thì quanh quẩn những hiện sinh, nôn mửa, làm mới văn học, hay viết về những kinh nghiệm bản thân về một chủ nghĩa là Cộng Sản mà họ đã trải qua… Họ sống ở thủ đô, ít hiểu, ít chất liệu để nói về con quái vật chiến tranh và những hệ lụy của nó. Và nếu có viết thì chỉ đứng ở ngoài nhìn vào, chứ không phải đứng trong lòng cuộc chiến như những kẻ trực tiếp ở trong lòng hoả ngục mà tổng thống thứ 31 của Mỹ là Hoover đã từng nói “tuyên chiến thì dành cho những ông già còn phần đánh và chết thì dành cho đám trẻ“. (Herbert Hoover: The old men declare war. But it is the youth who must fight and die).

Riêng, những người trẻ viết văn thì không những lãnh phần đánh giặc, chết thế mà còn tự nguyện lãnh thêm những sấp giấy nhét trong ba lô hay túi áo trận có khi dính đầy máu. Và khác với những quan chức văn nghệ phòng trà, mang bộ đồng phục mà viết về ca sĩ, vũ nữ v.v… thì các người viết trẻ phải viết trong điều kiện:

“Viết thư thăm ông sau cuộc hành quân biên phòng, kéo dài suốt 20 ngày trong rừng đầy muỗi, lạnh và vắt rừng.
Ở đây thiếu thốn về nhiều phương diện. Ngay như báo chí. Đôi khi tờ báo hàng ngày xuất bản ngày 10 thì đến 20 chúng tôi mới được đọc. Còn nói gì đến những tập san văn học nghệ thuật? “

(t.l, thư từ Dakto ngày 12-12-1970, Vấn đề số 45 tháng 4- 71)

2. May mắn trong thế giới ấy chúng ta có một Trần Phong Giao của Văn.

Có thể nói, trong thời chiến, không một người viết trẻ nào lại không nhớ đến cái công tìm tòi, khai phá những tài năng mới của tạp chí Văn, mà thơ ký tòa soạn Trần Phong Giao(TPG) là người đầu tàu.

3. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến một đức tính quí hiếm mà chúng tôi đã tìm thấy ở ông, dù ít khi chúng tôi có dịp gần gũi với ông.

Nhớ lại trong vài lần từ vùng hai về phép, ghé ngang tòa soạn Văn, thăm ông, thấy ông với gương mặt lạnh lùng, họa hoằn lắm mới thốt vài câu thăm hỏi, sau đó lại tiếp tục cúi xuống bàn máy đánh chữ, thì thấy lòng hơi bất mãn.

Vậy mà trên tạp chí Văn, ở mục trang Sinh Họat Văn học Nghệ thuật, dưới bút hiệu Thư Trung, ông luôn luôn viết về chúng tôi, đề cập đến chúng tôi, và cất lời thống thiết vì chúng tôi. Thật khó tìm một tạp chí có người thơ ký tòa soạn lại chú tâm về cuộc hành trình của những người mang màu áo đồng phục như chúng tôi như thế. Nhờ Văn mà chúng tôi tìm đến nhau, và biết tin nhau dù chúng tôi luân lạc tứ phương, ví dụ qua bản tin trên Văn số 121 năm 1968:





Hay trên tạp chí Văn số 103 Tháng 4 năm 1968, ông đã viết về lần chúng tôi (THT) bị thương trong trận Mậu Thân:





Ông gọi, kêu, khan cổ. Cái máy chữ Olympic phương tiện mà ông xữ dụng từ việc liên lạc, đến việc trị sự, tòa soạn, đã bao lần thấy được nỗi lòng của ông, vì bạn văn, vì những người đồng chung một mái nhà văn chương. Như lần ông kêu cứu nhà văn Duy Lam giúp đở nhà thơ Đỗ Tấn sau khi nhà thơ này gặp nạn vào Tết Mậu Thân:



*

Sau 1975, Trần Phong Giao sống lặng lẽ, ít giao tiếp với ai, nhất là giới văn nghệ sĩ ở hải ngoại.

Ông chết vào ngày 12-4-2005 tại Saigon thọ 70 tuổi vì bịnh ung thư đại tràng.

Lòng bùi ngùi nhớ lại người đã gây dựng tạp chí Văn, đưa tạp chí này lên một vị thế lớn trong bầu trời văn chương miền Nam, thêm vào cõi lòng từ tâm hiếm có, không biết gì hơn là xin được đăng bài thơ của ông sau 1975 mà ông cảm tác khi vào tuổi 60 do một người bạn văn thương mến gởi tặng tòa soạn TQBT để chúng ta hiểu rõ hơn về cuộc đời của ông sau 1975:

Khai bút đầu xuân gõ máy chơi
Tưởng mình “cả tiếng lại dài hơi” (1)
Nào ngờ mắt kém, tay run rẩy
Đã lão, tuy vừa chớm sáu mươi!


Tuổi “tri thiên mệnh” tưởng được nghỉ
Nào ngờ vợ ốm thêm vận bỉ
Lại thức thâu đêm mài chữ bán
Bảy hào một từ, sung sướng nhỉ?


“Chữ nghĩa tây tầu chót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn soàng” (2)
Mười ba năm đã quên cầm bút
Nghĩ đến Kiều thêm nỗi bẽ bàng!


Xin hiểu lòng tôi, hỡi nguyệt vàng:
Mưu sinh hệ lụy của trần gian
Tôi còn sống nhé, tôi chưa chết,
Chỉ có tên xưa: cát bụi tan!…


Trà, rượu, xuân tình vẫn cứ chơi
“Cơm toàn rau muống, chẳng chiên ngồi” (3)
Đã lỡ phong lưu nên phải gượng
Sàng đầu kim tận cũng đành vui…


Tưởng lúc về già được con nuôi:
Chơi chim, chơi cảnh, hưởng nhàn chơi,
Hạo khí chưa mòn, râu tóc bạc
Mới biết cao xanh chẳng đãi người…


Trời cao mây trắng ngẩn ngơ trôi…
Ngoài hiên hoa mướp nhởn nhơ cười
Thơ xuân, đánh chữ, ghê ông quá,
Chữ nghĩa thư-trung chán mớ đời! (4)


Đầu năm khai bút, à, khai máy,
Rượu uống mềm môi vẫn chẳng say,
Ngậm ngùi pha loãng men cay đắng,
Hàng xóm hoa mai lơi lả bay…


Một bầu tâm sự gởi về đâu?
Mênh mang giấy trắng ngẩn ngơ sầu,
Trước đèn nào biết xuân hay tết,
Chỉ biết lòng riêng nỗi quặn đau.


Khai bút đầu xuân gõ máy chơi
Tâm sự vô cùng, cố hữu ơi!
Đã không thương nhớ, đừng thương xót,
Hãy mặc tôi

tuổi sáu mươi!….

Trần Phong Giao (*) – 1990


--------------------------------------------------------------------------------
Ghi Chú:

1. Mõ Làng Văn: Một bút hiệu ngày cũ

2. Thơ Tản Đà

3. Thơ Nguyễn Trãi: “bàn duy mục túc, tọa vô chiên”

4. Một bút hiệu ngày cũ


(1) Trích từ Thư Quán Bản Thảo số 35 tháng 2-2009

http://damau.org

URL to article: http://damau.org/archives/9351

Saturday, July 10, 2010

Tiến sĩ là gì và không là gì? -

Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn

Bài đã được xuất bản.: 07/07/2010 06:00 GMT+7

TS ngày xưa chỉ làm một bài thơ hay phú, và được vua quan phê chuẩn. Còn ngày nay, để có bằng TS, ứng viên phải hoàn tất nhiều nghiên cứu và tổng kết trong một luận án khá dài.
>> Khái niệm "tiến sĩ" đã bị hiểu sai
>> Nỏ thần giả và bằng Tiến sĩ dỏm
>> Mua "bằng cấp" xuyên quốc gia và lời...cơ chế
>> Chủ nhân vụ "bằng cấp dỏm": "Tôi không may!"
LTS: Sau khi trên báo chí, và dư luận xã hội xôn xao về vụ "Tiến sĩ ở Mỹ không cần biết tiếng Anh", Tuần Việt Nam chúng tôi nhận được bài viết của Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (Úc) bàn sâu về chủ đề văn bằng TS. Trong bối cảnh ngành giáo dục nước ta có chủ trương đào tạo hơn 20.000 TS, bài viết này đặt ra rất nhiều vấn đề đáng suy nghĩ. Tuần Việt Nam xin trân trọng đăng tải.
Có lẽ nhiều bạn đọc sẽ thấy ngạc nhiên khi đọc tựa đề này, vì nó hơi... ngô nghê. Nhưng tôi phải mượn tựa đề câu hỏi đó để giải tỏa một số ngộ nhận về văn bằng TS đang được một tờ báo mạng vô tình tiếp tay phổ biến và những "lem nhem" chung quanh việc hiểu ý nghĩa của văn bằng này nhân một vụ việc về bằng TS được cấp ở Mỹ khiến dư luận ồn ào gần đây.
Tiến sĩ không phải là...
Thứ nhất, TS không phải là một nghề. Nghề là một việc làm qua sự phân công của xã hội. Trong xã hội có người làm nghề thợ mộc, nghề nấu ăn, nghề thầy thuốc, v.v... Tùy theo bối cảnh và cấp bậc, tiếng Anh gọi nghề là occupation, là vocation, hay có khi là profession. Do đó, khi người ta hỏi "nghề của chị là gì", thì câu trả lời có thể là "tôi làm nghề dạy học", hay "tôi làm nghề buôn bán lẻ". TS là một degree, tức là một bằng cấp hay học vị. Thật là ngô nghê nếu có người nói "tôi hành nghề TS"!
TS không phải là một tước vị. Tước vị là những danh vị do Nhà nước hay một tổ chức phong tặng, và cá nhân được phong tặng không phải trải qua một quá trình học hành. Chẳng hạn như "Sir" là một tước hiệu do Nữ hoàng Anh tặng cho những người có công trong hoạt động xã hội và cộng đồng, hoặc như "Nhà giáo Nhân dân"- tước hiệu do Nhà nước theo khối xã hội chủ nghĩa (như Việt Nam) phong tặng cho những nhà giáo có công lớn với sự nghiệp giáo dục (trên lí thuyết).
Còn văn bằng TS chỉ được cấp cho những người nào đã qua một quá trình học hành và nghiên cứu khoa học, đã đáp ứng các tiêu chuẩn do trường đại học đề ra. Do đó, TS không phải là một tước vị hay phẩm hàm.
TS không phải là "đỉnh cao trí tuệ". Người theo học TS thường nghiên cứu về một đề tài hẹp, có khi rất hẹp, chứ không theo đuổi một đề tài bao quát như ở bậc cử nhân hay thạc sĩ. Có khi người ta bỏ ra cả 4-5 năm chỉ để nghiên cứu một phân tử! Mà ngay cả sau khi xong luận án TS, ứng viên cũng chưa thể hiểu hết về đề tài hẹp đó. Trong khoa học không có cái gì là chắc chắn và xác định. Tất cả những gì chúng ta hiểu biết đều mang tính bất định và có điều kiện.
Nhưng học TS không dễ và thoải mái. Học để làm TS nghiêm chỉnh không bao giờ dễ và dứt khoát càng không thoải mái. Đó không phải như bậc cử nhân hay thạc sĩ (tức hoàn tất các môn học qua thi cử), mà là làm nghiên cứu khoa học. NCKH là cả một qui trình có hệ thống, mà chỉ cần sai một khâu trong qui trình đó thì xem như là thất bại.
NCKH không chỉ đòi hỏi ứng viên phải có "cái đầu" tốt (tức ý tưởng tốt), mà còn đòi hỏi ứng viên phải nắm vững phương pháp, nhất là đòi hỏi thời gian để hoàn tất. Phải dự bao nhiêu seminar, họp lab, cứ mỗi 6 tháng thì có kiểm tra, báo cáo tiền độ học vấn, thêm vào đó là áp lực bài báo khoa học lúc nào cũng đè nặng tâm lý. Nếu gặp giáo sư hướng dẫn khó tính, lúc nào cũng đòi hỏi phải có "outcome" (thành quả) thì càng mệt hơn. Nhất là đến lúc viết luận án thì áp lực càng kinh khủng hơn nữa. Tôi chưa nghe ai nói học TS thoải mái cả.
Cố nhiên, ở đây tôi chỉ bàn đến những chương trình đào tạo TS nghiêm túc và có chất lượng. Cần nói thêm rằng cũng có những trung tâm và trường ĐH nhận nghiên cứu sinh khá tùy tiện, chẳng cần qua phỏng vấn, tiêu chuẩn nghiên cứu, vì các GS ở đó có nhu cầu một vài người giúp việc... rẻ tiền.
Đối với những trung tâm này, họ xem nghiên cứu sinh TS chỉ là một công nhân trí thức trong dây chuyền sản xuất để họ đạt được mục tiêu của họ (họ chẳng cần quan tâm đến tương lai của nghiên cứu sinh, và nghiên cứu sinh cứ tưởng rằng làm TS dễ quá!) Tôi không bàn đến những chương trình học TS từ các trường "làng nhàng" như thế, nghiên cứu sinh mà không cần công bố bài báo khoa học vẫn có thể tốt nghiệp.
Không phải chương trình đào tạo TS nào cũng có chất lượng như nhau. Những chương trình đào tạo từ các lab có uy tín phải có đẳng cấp khác với những chương trình xoàng xĩnh. Thử tưởng tượng, một nghiên cứu sinh sau khi hoàn tất chương trình TS mà không có đến một bài báo trong lí lịch thì làm sao có thể cạnh tranh với các nghiên cứu sinh khác.
TS không phải là những ông "nghè". Ở nước ta, những người có bằng TS thường được xem như là những ông nghè hiện đại. Do đó, có người còn đề nghị nên có "văn miếu" cho các ông bà nghè này! Nhưng theo tôi, văn bằng TS thời nay rất khác với TS thời xưa, khác từ cách học đến qui trình học.
Ngày xưa, TS (hay thái học sinh) là những người đã qua 3 kì thi hương, thi hội, và thi đình, tức là những kì thi mang tính giai tầng địa phương.
Còn chương trình TS ngày nay là một qui trình đào tạo liên tục và khá lâu năm, chứ không phải thi theo cấp địa phương. TS ngày xưa chỉ làm một bài thơ hay phú, và được vua quan phê chuẩn. Còn ngày nay, để có bằng TS, ứng viên phải hoàn tất nhiều nghiên cứu và tổng kết trong một luận án khá dài. Nói tóm lại, TS không phải và không nên hiểu như là những vị nghè ngày xưa.


Học vị tiến sĩ không phải để kiếm nhiều tiền
Danh xưng TS có lẽ được xuất phát từ chữ Hán mà tiếng Anh phiên âm là "Chin-shih" (và tiếng Anh dịch là "Doctor"). Nếu không nhầm, văn bằng này được cấp lần đầu tiên vào năm 1313 (dưới triều đại nhà Tống). Vào năm này, một cuộc thi tuyển đặt dưới sự chủ tọa của vua Tống được tổ chức. Kết quả của kì thi này, có 300 thí sinh được cấp danh hiệu Chin-shih, trong số đó, có 75 người gốc Mông Cổ, 75 người quê quán ở miền Nam Trung Quốc, 75 người quê quán ở miền Bắc Trung Quốc, và 75 người có quốc tịch ngoại quốc.
Danh xưng TS không có nghĩa là sẽ nghiễm nhiên đem lại thanh thế hay uy danh cho cá nhân. Hầu hết các thí sinh đã đạt được văn bằng TS đều cảm thấy tự hào về nỗ lực và kết quả của việc phấn đấu trong học hành, nghiên cứu. Tuy nhiên, thí sinh phải hiểu rằng một khi tốt nghiệp TS, thí sinh có thể làm việc với nhiều nhà khoa học khác cũng có bằng TS. Học vị TS mới chỉ là bước đầu vào NCKH, nó chẳng đem lại uy danh cho người có học vị nếu người đó không có công trình NCKH nào có giá trị.
Học vị TS không tự động nâng giá trị ý kiến của thí sinh. Nhiều người tin rằng một khi họ có văn bằng TS trong tay, công chúng sẽ tự nhiên kính trọng ý kiến của họ. Niềm tin này hoàn toàn sai. Nhiều người có học vị TS có thể am hiểu và uyên bác về một lĩnh vực chuyên môn hẹp nào đó, nhưng không phải là chuyên gia của mọi vấn đề khác.
Học vị TS không bảo đảm thí sinh sẽ có công ăn việc làm ngay. Có khi ngược lại: Sinh viên tốt nghiệp TS có thể khó tìm việc làm hơn là sinh viên tốt nghiệp cử nhân hay thạc sĩ, bởi vì như nói trên TS là những nhà nghiên cứu. Một số công ty không muốn và không thích mướn những người có văn bằng TS cho những việc không dính dáng với nghiên cứu. Thêm vào đó, một khi nền kinh tế bị suy yếu, tất cả thành viên trong xã hội đều chịu chung số phận, thì một số công ty giảm thiểu người nghiên cứu trước khi giảm thiểu người sản xuất.
Học vị TS không phải để kiếm nhiều tiền. Thí sinh tốt nghiệp TS thực ra không có lương bổng cao hơn các thí sinh có bằng cử nhân hay người công nhân bình thường trong hãng xưởng. Vì học TS là để trở thành nhà nghiên cứu, nhà khoa học, và cái quan tâm đầu tiên của nhà khoa học là sự thật, chứ không phải sự giàu có về tiền bạc. Tất nhiên, có nhiều khi sự thật và khám phá cũng đem lại một nguồn tài chính lớn cho nhà nghiên cứu. Nhưng nói chung, đó không phải là mục tiêu để theo học TS.
Học vị TS không có nghĩa là một lựa chọn tốt nhất trong đời. Cống hiến cho xã hội có nhiều cách và cuộc đời có nhiều lựa chọn. Học vị TS chỉ là một trong số hàng trăm lựa chọn. Thật vậy, đối với nhiều thí sinh, học vị TS có thể là một sự nguyền rủa! Thí sinh phải tự hỏi mình muốn làm người lãnh đạo trong những người có văn bằng thạc sĩ, hay là làm một nhà nghiên cứu tầm thường? Thí sinh phải biết và quyết định mình muốn gì, và nghề nghiệp nào sẽ kích khích mình nhiều nhất hay đem lại hạnh phúc cho mình nhất.
Tại sao "tiến sĩ" (PhD)?
Tuy có danh chính thức là triết học ("Doctor of Philosophy" hay PhD) nhưng TS không hẳn là người học về triết. PhD là một học vị cho tất cả các ngành khoa học, kể cả khoa học cơ bản và nhân văn. Điều "trớ trêu" này có một lịch sử của nó.


Hệ thống bằng cấp ĐH ngày nay được bắt nguồn và mô phỏng từ hệ thống văn bằng của 2 trường ĐH cổ kính ở Âu châu vào thế kỷ 13: Trường ĐH Paris ở Pháp (thành lập vào năm 1170) và Trường ĐH Bologna ở Ý (thành lập vào khoảng 1158). Theo bộ Luật La Mã, vào thời Trung cổ, mỗi ngành nghề có quyền thành lập một hiệp hội gọi là Collegium, và hiệp hội này bầu ra những người có danh hiệu là Magistrates (mà tôi tạm dịch là "Thầy").
Vào thời này, người được nhận vào phụ giảng được gọi là Bachalari. Vào cuối thế kỉ 13, ĐH Paris thay đổi học vị này thành Baccalaureaet. Lúc bấy giờ, văn bằng Baccalauréate hay Bachelor là học vị duy nhất được cấp cho những thí sinh đã thi đỗ khóa thi do các các "Thầy" đặt ra; và đã học xong một chương trình giáo khoa 4 năm về ngữ pháp, tu từ học và logic.
Sau khi xong văn bằng Bachelor, thí sinh có thể theo học tiếp chương trình MasterDoctor. Và sau khi đã xong chương trình học Master hay Doctor (khoảng 8 năm học), một hội đồng giám khảo sẽ duyệt xét thí sinh để kết nạp vào tổ chức được gọi là Universitas of Doctors.
Sự kếp nạp này cũng là một "chứng chỉ" được hành nghề dạy ĐH. Lúc bấy giờ, những danh xưng như Master, Doctor và Professor có cùng nghĩa và tương đương về giai cấp: Họ hành nghề dạy học. Vào thế kỉ 13, những người dạy học tại ĐH Bologna, lúc đó là trung tâm huấn luyện về luật pháp bên châu Âu, được gọi là Doctor. Trong khi đó ở ĐH Paris, là trung tâm về văn học nghệ thuật, những người dạy học được gọi là Master.
Sự bình đẳng giữa Master và Doctor bị chấm dứt ở Anh và Mỹ, nơi mà văn bằng Doctor sau này được đánh giá cao hơn văn bằng Master. Ở Anh, 2 trường ĐH Oxford (thành lập vào khoảng 1249) và Cambridge (thành lập vào khoảng 1209) được mô phỏng theo hệ thống tổ chức của ĐH Paris. Do đó, các nhà khoa bảng các môn văn hóa nghệ thuật thường được gọi là "Master". Trong khi các đồng nghiệp của họ ở các môn học như triết, thần học, y học, và luật được gọi là "Doctor". Ngày nay, các tên bằng cấp như "Master of Arts" và "Doctor of Philosophy" có nguồn gốc từ sự phân chia này.
Tiến sĩ là gì?
TS là học vị cao nhất trong hệ thống giáo dục ĐH phương Tây. Theo mô hình này, có 3 cấp học chính: Cử nhân, thạc sĩ (masters), và TS. Về mặt con số, sự phân bố 3 loại bằng cấp đó giống như hình tháp: TS ở vị trí chót vót, cử nhân ở vị trí thấp nhất, và thạc sĩ ở chính giữa. Trong dân số, ở các nước tiên tiến như Mỹ chẳng hạn, chỉ có khoảng 0.8% người có bằng TS. Còn ở các nước khu vực chẳng hạn, như Thái Lan, năm 2007, có 1.77 triệu sinh viên bậc cử nhân, 182 ngàn sinh viên thạc sĩ, và chỉ có 16246 nghiên cứu sinh bậc TS. Nói cách khác, chỉ 0.8% sinh viên ĐH theo học TS.


Học để làm TS nghiêm chỉnh không bao giờ dễ. Ảnh minh họa
Có nhiều lí do tại sao số người theo học TS quá ít. Lí do đơn giản nhất là người ta không có nhu cầu học TS. Cũng có người sau 4 năm theo học cử nhân đã cảm thấy mệt mỏi, và chỉ mong tốt nghiệp để kiếm thu nhập bù lại những năm tháng theo học. Có người không đủ trình độ hoặc không đáp ứng điều kiện theo học. Ở những ĐH và trung tâm đào tạo nghiêm chỉnh, chỉ có khoảng 1-2% ứng viên xin học TS được nhận học (sau khi qua một đợt phỏng vấn).
Điều này cũng không khó hiểu, bởi vì chương trình TS là nhằm đào tạo một "lực lượng" khoa học elite cho các trường ĐH, một lực lượng khoa học then chốt cho các trung tâm NCKH và kĩ nghệ. Có thể nói không ngoa rằng chương trình đào tạo TS trong ý tưởng là đào tạo một đội ngũ tinh hoa của xã hội.
Đó cũng chính là lí do tại sao người ta đánh giá nền khoa học và trình độ tiên tiến của một quốc gia bằng cách dựa vào số người có học vị TS trong dân số. Ở những nước có nền kinh tế phát triển cao như Mỹ, số người có bằng TS khoảng 0.7% dân số.

( Mời bạn đọc đón đọc kỳ II: Học tiến sĩ để làm gì? )

Cả một nền giáo dục "không may"(!) -

Cả một nền giáo dục "không may"(!) -
Tác giả: Hà Văn Thịnh

Bài đã được xuất bản.: 09/07/2010 06:00 GMT+7


Nếu 30% máy cái bị hỏng thì sản phẩm tạo ra thuộc loại nào? Đây là câu hỏi không hề nhỏ vì đó là nỗi đáng lo đối với sự xuống cấp, thậm chí có phần "tha hóa" của một nền giáo dục nhìn đâu cũng thấy "dỏm".
Đọc bài báo của Tuần Việt Nam (26/6/2010) nói về chuyện ông Nguyễn Ngọc Ân, Giám đốc Sở VH-TT-DL tỉnh Phú Thọ nói về chuyện "không may" của mình khi bỏ ra 17.000 USD để có bằng TS do một trường ĐH ở Mỹ cấp, mà không cần người học có kỹ năng nghe- đọc- nói tiếng Anh, một trường ĐH, theo GS Nguyễn Văn Tuấn (Úc) đặt tại...Malaysia, đã bị giải thể từ năm...2003, mà thật xót xa cho nhiều điều, nhiều chuyện của nền giáo dục nước nhà. Phải chăng cũng là nền giáo dục "không may"?
Ngành giáo dục...đùa dai và duy ý chí
Nhưng điều đáng buồn nhất, cả ngành giáo dục vẫn đang "tự sướng" vì kết quả thi tốt nghiệp THPT vừa rồi đạt trên 90% (không ít tỉnh có số học sinh đậu từ 97-99%). Kết quả đó giống như một sự "đùa dai" vì ai cũng biết trong tất cả mọi hình thái, công đoạn của sự di truyền thì di truyền văn hóa - giáo dục luôn là điều khó khăn, phức tạp nhất.
Đức Bodhidharma (Bồ Đề Đạt Ma) có nói rằng trên đời có 3 điều không thể mua: đó là tình cảm chân thành, thời gian sống và...hiểu biết. Làm sao một nền giáo dục khủng hoảng và bất cập trầm trọng, chỉ trong thời gian ngắn, các điều kiện quyết định về chất lượng không cải thiện được bao nhiêu, mà lại có thể có một kết quả như từ trên trời rơi xuống?
Cứ 10 người dân thì 9 người không tin kết quả đó. Bởi ai cũng ngầm định, ngầm hiểu rằng để "hóa phép giả - thật" là điều dễ nhưng để có hiểu biết thật thì không dễ một chút nào. Không thể có chuyện một địa phương năm ngoái kém cỏi, bết bát trong chuyện thi cử mà năm nay lại "thăng hoa" một tấc đến trời, bởi giáo dục là một quá trình.
Điều buồn thứ hai, Bộ GD và ĐT vẫn bất chấp dư luận, "duy ý chí" khi biết rằng trong 65 năm của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Cộng hòa XHCN Việt Nam chúng ta chỉ đào tạo được có 15.000 tiến sĩ. Thế nhưng, Bộ đã ký cái rụp đề án trong 10 năm tới sẽ có 20.000 TS - không biết để làm gì, với tổng kinh phí là 14.000 tỷ đồng- tương đương với 778 triệu USD.


Tương lai của một nền giáo dục nhìn đâu cũng thấy "dỏm" sẽ như thế nào? Ảnh minh họa
Theo GS Nguyễn Văn Tuấn, chỉ riêng việc đào tạo 10.000 TS ở nước ngoài, chi phí thấp nhất đã là 900 triệu USD. Vậy, lấy tiền đâu để bù vào khoản thiếu hụt 122 triệu USD đào tạo ở nước ngoài và vài trăm triệu USD nữa cho kinh phí đào tạo trong nước?
Kế hoạch gì kỳ cục vậy khi Bộ cứ ký, nhưng tiền không đủ, thiếu cả hàng trăm triệu USD? Đó là chưa nói đến việc số lượng TS "trên mây" nhiều như thế mà đất nước cứ đói nghèo, dân tộc cứ lẹt đẹt đi sau người ta thì đào tạo TS nhiều để làm gì?
Điều buồn thứ ba, cựu Thứ trưởng Bành Tiến Long cách đây mấy năm đã thừa nhận trước công luận rằng có đến 30% TS không đạt chuẩn - nói nôm na là "dỏm". Bộ GD và ĐT đã thừa nhận như thế nhưng tại sao vẫn chấp nhận thực tế ấy? Tại sao Bộ - cơ quan chủ quản lại không làm một cuộc thanh tra, sát hạch toàn diện về bằng cấp thật - giả để chấn chỉnh đội ngũ này?
Và tham vọng "cá chép" vượt "vũ môn"
Các TS đương nhiệm hiện nay, nhiều người có khả năng là những máy cái đào tạo ra nhiều thế hệ TS nữa cho nước nhà. Nếu 30% máy cái bị hỏng thì sản phẩm tạo ra thuộc loại nào? Đây là câu hỏi không hề nhỏ vì đó là nỗi đáng lo đối với sự xuống cấp, thậm chí có phần "tha hóa" của một nền giáo dục nhìn đâu cũng thấy "dỏm".
Nhưng, quả thật, nếu Bộ tổ chức được những cuộc khảo sát có chất lượng do những người có tâm huyết với nước, với ngành chịu trách nhiệm thì người viết bài này, e con số không dừng lại ở tỷ lệ 30%.
Những người có trách nhiệm của ngành có thấy đau buồn không khi ông GĐ Sở VH- TT- DL Nguyễn Ngọc Ân cho rằng cái sai của ông chỉ là do "không may" - có nghĩa là rất nhiều người may mắn "chưa bị lộ" vẫn có bằng cấp ấy, chức phận kia, nghênh ngang, chễm chệ làm xấu, làm hỏng nền học vấn của nước nhà?


Trong 10 năm tới, VN sẽ có 20.000 TS? Ảnh minh họa
Nếu muốn bàn thêm thì cái tư tưởng cố đấm ăn xôi với tham vọng là "cá chép" mong vượt "vũ môn" ở kỳ Đại hội tỉnh Đảng bộ sắp tới (như ông Ân nói) quả là vấn nạn đáng buồn cho đất nước này.
Bộ GD và ĐT vừa có Bộ trưởng mới. Là một giảng viên, tôi tin chắc xã hội, số đông các nhà giáo ở cơ sở đang chờ mong sự thay đổi quyết đoán, táo bạo và có hiệu quả, nhất là về cơ chế quản lý GD và ĐT của Bộ trưởng Phạm Vũ Luận.
Xin kiến nghị với Bộ trưởng, trước khi có được một nền giáo dục tốt đẹp, nhất thiết phải "thay máu" - thay đổi triết lý giáo dục. Phải làm sạch tất cả những sự dối trá - điều quyết định làm cho đất nước đã và đang tạo ra rất nhiều những con người dối trá và kém cỏi...
Mong mỏi lắm thay!